CÂU 1: KDQT LÀ GÌ? PHÂN BIỆT KDQT VÀ KDNĐ? LẤY
3 VÍ DỤ
KN: Kinh doanh quốc tế là toàn bộ các hoạt động giao
dịch, kinh doanh được thực hiện giữa các quốc gia, nhằm thỏa mãn các mục tiêu
của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức kinh tế xã hội. Hoạt động kinh
doanh quốc tế diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia, và trong môi trường kinh
doanh mới và xa lạ.
Ví dụ về một số giao dịch
kinh doanh quốc tế:
- Tập đoàn Cocacola quyết định đầu tư xây
dựng nhà máy sản xuất tại Việt Nam
- Công ty sữa Vinamilk tìm thị trường tiêu
thụ tại Nhật Bản
- Công ty Cổ phần May 10 ký hợp đồng gia
công quần áo cho hãng Nike
Phân biệt kinh doanh quốc
tế và kinh doanh nội địa?
Giống: đều là các hđ
giao dịch kinh daonh nhằm đạt được các mục tiêu của DN, tổ chức, cá nhân.
KDQT: - Vượt qua biên giới của một
quốc gia
-
Gặp nhiều rủi ro hơn
-
HĐ kinh doanh trong môi
trường mới và xa lạ nên phải thích ứng nhiều hơn.
-
Mở rộng phạm vi thị
trường nên có cơ hội tăng lợi nhuận hơn so với các DN KDNĐ
-
Các hđ kinh doanh diễn
ra giữa các nước và toàn cầu
-
Dễ dàng tạo được uy tín
trên thị trường quốc tế và đa dạng hóa hđ kd.
§ KDNĐ: - Các hđ diễn ra trong biên giới của một quốc
gia
-
Gặp ít rủi ro hơn, lợi
nhuận khó có thể tăng cao nếu chỉ kd trong nước.
-
Các hđ kd diễn ra giữa
các tổ chức trong nước.
-
Chủ yếu tận dụng nguồn
lực trong nước để tiến hành kd nhằm thu lợi nhuận.
CÂU 2: TRÌNH BÀY VÀ GIẢI THÍCH 1 SỐ
LÝ DO CÁC CÔNG TY THAM GIA VÀO HĐ KINH DOANH QUỐC TẾ? VÍ DỤ.
Các công ty tham gia kinh doanh quốc tế
xuất phát từ lý do tăng doanh số bán hàng và tiếp cận các nguồn lực dồi dào,
giá rẻ hoặc có chất lượng cao là chủ yếu.
* Tăng doanh số bán hàng.
- Cơ hội tăng doanh số bán quốc tế
·
Các công ty thường tham
gia kinh doanh quốc tế nhằm khai thác các cơ hội bán hàng quốc tế bằng cách
tăng doanh số bán hàng do các yếu tố như thị trường trong nước bão hòa hoặc nền
kinh tế đang suy thoái.
·
Mức thu nhập bấp bênh
gây nên những xáo động thất thường của quá trình sản xuất, các quá trình này có
thể là sản xuất quá tải hoặc không hết công xuất. Buộc các công ty ổn định nguồn
thu nhập của mình bằng cách bổ sung doanh số bán hàng quốc tế và doanh số bán
hàng trong nước.
·
Thái độ tiếp nhận sản
phẩm của kh ở các nền VH khác nhau: Các công ty sẽ nhảy vào thị trường quốc tế
khi họ tin rằng khách hàng ở các nền văn hóa khác có thái độ tiếp nhận sản phẩm
của mình tốt hơn và có thể mua chúng.
Chúng ta hãy xem chiến lược của Mc. Donald,
mặc dù trung bình cứ 29.000 người Mỹ thì có một cửa hàng Mc Donald, nhưng ở
Trung Quốc thì con số này là 40 triệu người/một cửa hàng. Do vậy chúng ta không
có gì ngạc nhiên khi hãng Mc. Donald đang đầu tư mở rộng hoạt động ở thị trường
Trung quốc cũng như ở một số nước Châu Á khác vì họ vẫn tin tưởng rằng lượng
khách hàng có nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm của họ vẫn còn rất lớn và nhu cầu
này sẽ ngày càng tăng lên.
- Tận dụng các nguồn lực sản xuất dư thừa
·
Khi công ty sản xuất
nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn mức thị trường có thể tiêu thụ. Điều đó xảy ra
khi các nguồn lực bị dư thừa. Thúc đẩy DN tìm các nhu cầu tiêu thụ khác trên
thế giới để chi phí sản xuất được phân bổ cho số lượng nhiều hơn sản phẩm làm
ra. Từ đó, làm giảm chi phí cho mỗi sản phẩm và tăng lợi nhuận.
·
Nếu lợi ích này chuyển
sang NTD dưới hình thức giảm giá thì DN vẫn chiếm được thị phần của các đối thủ
cạnh tranh, có thể nâng cao vị thế của DN trong các cuộc đàm phán kinh doanh.
* Tiếp cận các nguồn lực nước ngoài
· Các công ty tham gia
kinh doanh quốc tế nhằm tiếp cận các nguồn lực mà trong nước không sẵn có hoặc
đắt đỏ hơn. Có thể là tài nguyên thiên nhiên, công nghệ, chính sách ưu đãi đặc
biệt…
VD: Để tiếp cận được các nguồn năng lượng
rẻ hơn dùng trong các ngành sản xuất công nghiệp khác, một loạt các công ty của
Nhật Bản, Mỹ đặt cơ sở sản xuất tại các nước như Trung Quốc, Đài Loan và Việt
Nam… những nơi có mức chi phí về năng lượng thấp hơn. Apple…
VD: Một số CT công nghệ GG, Apple… đặt các
chi nhánh tại một số quốc gia có ưu đãi đặc biệt về thuế. Khi mà thuế suất Thuế
TNDN ở Mỹ là 35% được cho là quá cao so với các nước khác đã khiến cho GG
chuyển phần lớn thu nhập của CT sang các thiên đường về thuế qua các trụ sở,
chi nhánh của CT tại một số nước như Ailen…
·
Nguồn nhân lực dồi dào
giá rẻ hoặc nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nếu chi phí lao động là lý do duy nhất để
một quốc gia cuốn hút các công ty quốc tế thì các nhà đầu tư sẽ đổ dồn vào
những nước có mức chi phí lao động thấp như ở một số nước kém phát triển và
đang phát triển. (Việt Nam, TQ…)
Vì vậy để tạo được sự hấp dẫn trong đầu tư
thì một quốc gia phải có mức chi phí thấp, có đội ngũ lao động lành nghề và môi
trường với mức ổn địng về kinh tế, chính trị và xã hội có thể chấp nhận được. Khi
các điều kiện nói trên được thỏa mãn thì một quốc gia sẽ thu hút được các dòng
đầu tư dài hạn cần thiết cho sự phát triển kinh tế của mình.
* Mở rộng phạm vi thị trường và đa dạng
hóa hđ kinh doanh giúp DN:
·
Phân tán được rủi ro
trong KD: DN có nhiều thị trường và nhiều hoạt động KD thì khi 1 thị trường, 1
lĩnh vực, 1 sản phẩm bị suy yếu cũng không có ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát
triển của DN. (unilever, P&G, VimpelCom của Nga rút đầu tư vào beeline…GG
rút GG plus tập trung cho GG map và GG +).
·
Khai thác có hiệu quả
các lợi ích so sánh để đạt hiệu quả kinh tế tối đa cho DN cũng như cho QG và
TG.
* Tạo uy tín và hình ảnh trên thị trường
quốc tế.
- Đây là điều mà tất cả các DN, CT tham gia
hđ kinh doanh đều mong muốn và hướng tới. vì nó cũng là 1 trong những yếu tố
quan trọng quyết định đến sự phát triển bền vững của DN.
VD: starbuck: qua KDQT đã tạo dựng thương hiệu cà phê
uy tín và chất lượng nhất thế giới.
CÂU 3: CÁC HÌNH THỨC KINH DOANH QUỐC
TẾ CHỦ YẾU.
a. Nhóm hình thức kinh
doanh trên lĩnh vực ngoại thương
+ Nhập khẩu là hoạt động
đưa các hàng hóa và dịch vụ vào một nước do các chính phủ, tổ chức hoặc cá nhân
đặt mua từ các nước khác nhau.
+ Xuất khẩu là hoạt động
đưa hàng hóa và dịch vụ ra khỏi một nướcc sang các quốc gia khác để bán
+ Gia công quốc tế là hoạt
động bên đặt gia công giao hoặc bán đứt nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm cho
bên nhận gia công. Sau một thời gian thỏa thuận, bên nhận đặt gia công nộp hoặc
bán lại thành phẩm cho bên đặt gia công và bên đặt gia công phải trả cho bên
nhận gia công một khoản tiền gọi là phí gia công. (Gia công thuê cho nước
ngoài/ thuê nước ngoài gia công).
+ Tái xuất khẩu là xuất
khẩu trở lại ra nước ngoài nhưng hàng hóa trước đây đã nhập khẩu nhưng chưa qua
chế biến. Tuy nhiên, trong thực tế có một số cách thức tái xuất khẩu khác nhau
mà các công ty có thể lựa chọn thùy theo các điều kiện cụ thể của mình.
+ Chuyển khẩu là hàng hóa
được chuyển từ một nước sang một nước thứ ba thông qua một nước khác. Trong hđ
này không có hành vi mua bán mà chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải, quá
cảnh, lưu kho, bảo quản…
+ Xuất khẩu tại chỗ là
hành vi bán hàng hóa cho người nước ngoài trên lãnh địa của nước 0mình.
b. Nhóm hình thức kinh
doanh thông qua các hợp đồng
+ Hợp đồng cấp giấy phép
là hợp đồng thông qua đó một công ty trao quyền sử dụng tài sản vô hình của
mình cho một doanh nghiệp khác trong một thời gian nhất định và người được cấp
giấy phép phải trả cho người cấp giấy phép một số tiền nhất định theo thoả thuận.
+ Hợp đồng đại lý đặc
quyền là một hợp đồng hợp tác kinh doanh thông qua đó người ta đưa ra đặc quyền
trao và cho phép người nhận đặc quyền sử dụng tên công ty rồi trao cho họ nhãn
hiệu, mẫu mã và tiếp tục thực hiện sự giúp đỡ hoạt động kinh doanh của đối tác
đó, ngược lại công ty nhận được một khoản tiền mà đối tác trả cho công ty.
+ Hợp đồng quản lý là hợp
đồng qua đó một doanh nghiệp thực hiện sự giúp đỡ của mình đối với một doanh
nghiệp khác quốc tịch bằng việc cử những nhân viên quản lý của mình hỗ trợ cho
doanh nghiệp kia thực hiện các chức năng quản lý.
+ Hợp đồng theo đơn đặt
hàng là loại hợp đồng thường diễn ra với các dự án vô cùng lớn, đa dạng, chi
tiết với những bộ phận rất phức tạp, cho nên các vấn đề về vốn, công nghệ và
quản lý, họ không tự đảm nhận được mà phải ký hợp đồng theo đơn đặt hàng từng
khâu, từng giai đoạn của dự án đó.
+ Hợp đồng xây dựng và
chuyển giao là những hợp đồng được áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng cơ
sở hạ tầng, trong đó chủ đầu tư nước ngoài bỏ vốn ra xây dựng công trình, kinh
doanh trong một khoảng thời gian nhất định sau đó chuyển giao lại cho nước sở
tại trong tình trạng công trình còn đang hoạt động tốt mà nước sở tại không
phải bồi hoàn tài sản cho bên nước ngoài. Ví dụ như các dự án làm đường, thu
phí, chuyển giao
+ Hợp đồng phân chia sản
phẩm là loại hợp đồng mà hai bên hoặc nhiều bên ký kết với nhau cùng nhau góp
vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh và sản phẩm thu được sẽ được chia cho
các bên theo tỷ lệ góp vốn hoặc thoả thuận.
c. Nhóm hình thức kinh
doanh thông qua đầu tư nước ngoài
+ Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là hình thức chủ đầu tư mang vốn hoặc tài sản sang nước khác để đầu tư
kinh doanh và trực tiếp quản lý và điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn, đồng thời
chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của dự án.
+ Đầu tư gián tiếp nước
ngoài là hình thức chủ đầu tư mang vốn sang nước khác để đầu tư nhưng không
trực tiếp tham gia quản lý và điều hành đối tượng bỏ vốn đầu tư, thông qua việc
mua cổ phiếu ở nước ngoài hoặc cho vay.
Trên thực tế kinh doanh quốc
tế còn xuất hiện nhiều hình thức mới để các công ty lựa chọn như kinh doanh
tổng hợp các dịch vụ quốc tế. Trên đây là các hình thức phổ biến nhất và cơ bản
nhất mà các chủ thể kinh doanh quốc tế có thể lựa chọn cho phù hợp với điều
kiện của mình.
CÂU 4: KHI PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG TỰ
NHIÊN CẦN LƯU Ý NHỮNG YẾU TỐ NÀO? GIẢI THÍCH SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CHÚNG ĐẾN HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ.
Một số các yếu tố cần chú ý khi phân tích môi trường
tự nhiên là:
- Vị trí địa lý
- Địa hình
- Khí hậu
- Tài nguyên thiên nhiên
·
Vị trí địa lý: Các quốc
gia có vị trí địa lý thuận tiện cho hoạt động KDQT như giáp với các nước có nền
kinh tế phát triển hoặc có vị trí giáp biển dễ dàng phát triển cảng nước sâu
thuận tiện cho giao thong, trao đổi thương mại dịch vụ với các quốc gia khác
hơn là các quốc gia kém phát triển hoặc nằm sâu trong lục địa. VD: Việt Nam và
Lào…
Vị trí địa lý càng thuận tiện càng dễ tham gia vào
hoạt động KDQT.
·
Địa hình: Tất cả các
đặc điểm tự nhiên tạo nên đặc trưng bề mặt của khu vực địa lý cấu thành địa
hình.
-
Một số đặc điểm bề mặt
như các con sông có thể có tàu bè qua lại và đồng bằng có điều kiện dễ dàng cho
đi lại và liên hệ với các nơi khác. Ngược lại vùng núi trải dài và sông hồ lớn
có thể giảm sự liên lạc và thay đổi văn hóa. Các nền văn hóa tập trung ở vùng
núi khó vượt qua hoặc biển hồ lớn (Everest, Biển Đen…) sẽ có ít khả năng tiếp
nhận những nét đặc sắc văn hóa của các nền văn hóa khác.
-
Địa hình có thể ảnh
hưởng đến nhu cầu sản phẩm của khách hàng. Ví dụ, có ít nhu cầu về xe gas của hãng Honda ở các
vùng đồi núi vì động cơ của nó quá yếu. Nhưng ở đó lại là tốt hơn đối với việc
bán xe môtô có động cơ lớn hơn để chạy ở địa hình xấu, cơ động và tiết kiệm
nhiên liệu. Không khí loãng hơn ở những vùng cao hơn có thể cũng yêu cầu cần
cải tiến thiết kế bộ chế hòa khí cho các xe tải dùng xăng có công suất khỏe
hơn.
-
Địa hình có thể ảnh
hưởng lớn đến giao tiếp cá nhân trong một nền văn hóa. Ví dụ, 2/3 lãnh thổ Trung Quốc nằm trong
địa hình đồi núi (gồm cả dãy núi Himalaya ở nam Tây Tạng) và các sa mạc Gobi
rộng lớn. Các nhóm dân tộc sống ở thung lũng núi trên thực tế vẫn giữ lối sống
và sử dụng ngôn ngữ riêng của họ. Mặc dù tiếng thổ ngữ Quan Thoại đã được phê
chuẩn là ngôn ngữ quốc gia nhiều năm trước đây nhưng các vùng núi, sa mạc và
đồng bằng rộng lớn của Trung Quốc vẫn hạn chế sử dụng và phát triển loại ngôn
ngữ này trong giao tiếp cá nhân.
·
Khí hậu:
Điều kiện thời tiết ở một khu vực địa lý được gọi là khí hậu. Khí hậu ảnh hưởng
đến địa điểm con người cư trú và hệ thống phân phối.
VD: Ở
Australia, điều kiện khí hậu khô và nóng được buộc người dân phải cư trú ở
những khu vực gần bờ biển. Kết quả là nước ở bờ biển vẫn có thể sử dụng để phân
phối đến các thành phố xa vì vận chuyển nước ít tốn kém hơn vận chuyển đất.
-
Khí hậu ảnh hưởng
đến lối sống và công việc:
Khí hậu đóng vai trò quan trọng đối với thói quen trong cuộc sống và công việc.
VD: Ở nhiều quốc gia Nam Âu, Bắc Phi và Trung
Đông trong mùa hè (tháng 7 và tháng 8) sức nóng của mặt trời tăng mạnh vào đầu
giờ chiều, do đó người dân thường nghỉ làm việc sau trưa 1 hoặc 2 tiếng. Trong
thời gian này mọi người có thể nghỉ ngơi hoặc làm những việc lặt vặt như đi mua
sắm, sau đó trở lại làm việc đến 7 hoặc 8 giờ tối.→ Các
công ty kinh doanh trong những vùng này phải thích nghi. Chẳng hạn như phải
điều chỉnh kế hoạch sản xuất trong những giai đoạn máy móc nhàn rỗi. Kế hoạch
giao hàng và nhận hàng phải lùi lại vào buổi chiều tối tạo điều kiện cho giao
hàng thuận tiện trong những giờ làm việc muộn.
-
Khí hậu ảnh hưởng
đến tập quán: Khí hậu cũng
ảnh hưởng đến các tập quán như mặc quần áo và dùng thức ăn.
VD: người dân ở những khu vực nhiệt đới
thường mặc ít quần áo và quần áo thường rộng rãi vì khí hậu ở những nơi này là
ấm và ẩm ướt. Ở các vùng sa mạc Trung Đông và Bắc Phi, người dân thường mặc
quần áo rộng, áo choàng dài để bảo vệ khỏi ánh nắng chói chang và cát bay.
Tập quán ăn
uống của một nền văn hóa có lẽ bị ảnh hưởng nhiều do môi trường tự nhiên hơn
các khía cạnh khác của văn hóa. VD: Những người sống ở xứ lạnh, bắc cực ăn
nhiều thức ăn có dầu mỡ để tích trữ năng lượng so với người sống ở khu vực
nhiệt đới. Khí hậu ở xứ Ôn đới và Nhiệt đới cũng khác nhau nên có sự khác nhau
giữa các món ăn ở 2 xứ này. VD. ở ôn đới lạnh nên không thể ủ mắm cá hay mắm
tôm nên họ thường ko thể ăn được 2 sản phẩm này…
DN nên có
kiến thức chuyên sâu về văn hóa ăn uống của từng vùng để dễ dàng trong việc
tiếp đón khách (trong nhà hàng…). Tạo điều kiện thuận lợi trong đàm phán kinh
doanh. Tránh những sai lầm ko đáng có.
·
Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên của mỗi quốc gia trên thế giới là không giống nhau về
chủng loại, trữ lượng hay chất lượng…
VD: Việt nam được coi là đất
nước giàu tài nguyên thiên nhiên nhưng ngược lại, Nhật bản là quốc gia nghèo
TNTN.
Nắm được vấn đề này, DN cần có
chiến lược đầu tư, sản xuất, tích trữ nhiên liệu, nguyên vật liệu cũng như bố
trí các nhà máy, chi nhánh trên thế giới cho phù hợp để tối thiểu hóa chi phí
và tối đa hóa lợi nhuận.
CÂU 5: NHỮNG THÀNH TỐ CỦA VĂN HÓA?
LẤY VÍ DỤ CHỨNG MINH CHO NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN CÁC HOẠT ĐỘNG KDQT?
- Thẩm mỹ
- Giá trị và thái độ
- Phong tục, tập quán
- Cấu trúc xã hội
- Tôn giáo
- Ngôn ngữ
a. Thẩm mỹ
Thẩm mỹ là những gì một nền
văn hóa cho là đẹp khi xem xét đến các khía cạnh như nghệ thuật (bao gồm âm
nhạc, hội họa, nhảy múa, kịch nói và kiến trúc); hình ảnh thể hiện gợi cảm qua
các biểu hiện và sự tượng trưng của các màu sắc.
Khi một hãng có ý định kinh
doanh ở một nền văn hóa khác thì vấn đề thẩm mỹ là quan trọng. Nhiều sai lầm có
thể xảy ra do việc chọn các màu sắc không phù hợp với quảng cáo, bao bì sản
phẩm và thậm chí các bộ quần áo đồng phục làm việc.
Ví dụ, màu xanh lá cây là
màu được ưa chuộng của đạo Hồi và được trang trí trên lá cờ của hầu hết các
nước Hồi giáo, gồm Jordan, Pakistan và Arập - Xêút. Do đó bao bì sản phẩm ở
đây thường là màu xanh lá cây để chiếm lợi thế về cảm xúc này. Trong khi đó đối
với nhiều nước châu Á, màu xanh lá cây lại tượng trưng cho sự ốm yếu. Chính vì
vậy, các công ty cần phải nghiên cứu thận trọng màu sắc và tên gọi sản phẩm để
chắc chắn rằng nó không gợi lên bất kỳ phản ứng không trù bị nào trước.
Âm nhạc cũng khắc sâu trong
văn hóa và phải được cân nhắc khi sử dụng. Âm nhạc có thể được sử dụng theo
nhiều cách rất thông minh và sáng tạo nhưng nhiều khi cũng có thể gây khó chịu
đối với người nghe. VD: trong buổi ra mắt sản phẩm chăm sóc sắc đẹp cho phụ nữ
ko nên chọn những loại nhạc mạnh, khó nghe như rap, hiphop, rock… Nhưng kinh
doanh sàn nhảy, quán bar thì chọn nhạc mạnh, gây hưng phấn, kích thích là phù
hợp. Kinh doanh du lịch, văn hóa festival truyền thống nên sử dụng nhạc cụ dân
tộc: nhã nhạc cung đình, chèo…phù hợp với văn hóa và sở thích của khách du
lịch.
Tương tự vậy, kiến trúc của các
tòa nhà và các công trình kiến trúc khác nhau cũng cần được nghiên cứu để tránh
những sai lầm ngớ ngẩn về sự tượng trưng của những hình dáng và hình thức cụ
thể.
b. Giá trị và thái độ
* Giá trị
Là những gì thuộc về quan
niệm, niềm tin và tập quán gắn với tình cảm của con người. Các giá trị bao gồm
những vấn đề như trung thực, chung thủy, tự do và trách nhiệm.
Các giá trị là quan trọng
đối với kinh doanh vì nó ảnh hưởng đến ước muốn vật chất và đạo đức nghề nghiệp
của con người
Chẳng hạn như ở Singapore
giá trị là làm việc tích cực và thành đạt về vật chất, ở Hy Lạp giá trị là nghỉ
ngơi và lối sống văn minh. Ở Mỹ giá trị là tự do cá nhân, người Mỹ có thể làm
theo sở thích hoặc thay đổi lối sống của mình cho dù có phải từ bỏ mọi cam kết
với gia đình, với cộng đồng. Ở Nhật Bản, giá trị là sự đồng lòng trong nhóm,
mọi người đều tin cậy lẫn nhau.
Ở nhiều nền văn hóa trên thế
giới hầu như các giao dịch kinh doanh giữa các cá nhân đều phải được thanh toán
bằng tiền mặt, họ không nhận séc hoặc giấy bảo đảm vì những thứ đó họ không tin
tưởng rằng có thể kiểm soát được.
* Thái độ
Là những đánh giá, tình cảm
và khuynh hướng tích cực hay tiêu cực của con người đối với một khái niệm hay
một đối tượng nào đó.
Ví dụ, một người Mỹ nói:“
Tôi không thích làm việc cho công ty Nhật vì tại đó tôi không được ra quyết
định một cách độc lập”. Thái độ phản ánh các giá trị tiềm ẩn. Trong trường hợp
này, thái độ của người Mỹ xuất phát từ sự coi trọng tự do cá nhân.
Trong các khía cạnh quan
trọng của cuộc sống có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động kinh doanh, con
người thường có những thái độ khác nhau đối với các vấn đề như thời gian, công
việc, sự thành công và sự thay đổi văn hóa.
- Thái độ đối với thời gian
Người dân ở nhiều nước Mỹ- Latinh và khu
vực Địa Trung Hải thường không coi trọng vấn đề thời gian. Các kế hoạch của họ
đều khá linh hoạt, họ thích hưởng thụ thời gian hơn là tiêu tốn nó cho những kế
hoạch cứng nhắc.
Ngược lại, đối với người
Mỹ, thời gian chính là nguồn của cải quý giá “Thời gian là tiền bạc”, Chính vì
thế người Mỹ luôn luôn coi trọng sự đúng giờ và biết quý trọng thời gian của
người khác. Tương tự như vậy, người Nhật Bản cũng rất quý trọng thời gian, họ
luôn theo sát các kế hoạch đã đề ra và làm việc liên tục trong một khoảng thời
gian dài.
Tuy nhiên, người Nhật và
người Mỹ cũng có sự khác nhau trong cách sử dụng thời gian cho công việc. Ví
dụ, người Mỹ gắng sức làm việc theo hướng lấy hiệu quả công việc là tiêu chí
hàng đầu, thỉnh thoảng họ có thể ra về sớm nếu ngày hôm đó đã hoàn thành nhiệm
vụ. Thái độ này chịu ảnh hưởng bởi giá trị của người Mỹ, họ coi trọng năng suất
và thành quả cá nhân.
Ở Nhật, điều quan trọng là
luôn bận rộn trong con mắt của người khác ngay cả khi công việc đó chẳng có gì
đáng phải bận rộn cả. Người Nhật có thái độ như vậy là do họ muốn biểu lộ sự
cống hiến của mình trước cấp trên và các đồng nghiệp. Trong trường hợp này,
thái độ truyền thụ những giá trị như sự nhất quán, lòng trung thực, sự hòa
thuận trong nhóm.
- Thái độ đối với công việc và
sự thành công
Người dân ở phía Nam nước Pháp hay nói:
“chúng ta làm việc để sống”, trong khi người Mỹ lại nói: “sống để làm việc”. Họ
cho rằng công việc là phương tiện để đạt được mục đích. Trong khi đó, người Mỹ
lại nói rằng công việc, bản thân nó đã là mục đích rồi. Không gì ngạc nhiên khi
lối sống của dân miền Nam nước Pháp có nhịp độ chậm. Mục đích của họ là kiếm
tiền để hưởng thụ. Trong thực tế các doanh nghiệp ở đây đã phải đóng cửa trong
suốt tháng 8 khi công nhân của họ đi nghỉ dài ngày trong khoảng thời gian này
(thường đi ra nước ngoài).
Một số người không mong ước
tới sự thành công trong công việc mà chỉ mong muốn có một công việc nào đó để
làm để tránh nhàm chán. Ngược lại, có những người mong muốn, hăm hở làm việc là
để nhằm đạt được một sự thành công nào đó. Những người này thường ít nổ lực nếu
như họ biết rằng khả năng thất bại là chắc chắn.
Cuối cùng, thái độ đối với
công việc cũng chịu sự tác động của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường tự do. VD: Công nhân không còn thỏa mãn với cách sản xuất sản phẩm theo
cơ chế cũ và muốn hoàn thiện bằng công việc của chính họ. Họ muốn các nhà quản
lý phải có kỹ năng trong công việc của họ, có kinh nghiệm đáng tin cậy và có
quyết định hợp lý.
c. Tập quán và phong tục
Khi tiến hành kinh doanh ở
một nền văn hóa khác, điều quan trọng đối với mỗi doanh nhân là phải hiểu phong
tục, tập quán của người dân nơi đó. Hiểu phong tục tập quán sẽ giúp nhà quản lý
tránh được các sai lầm ngớ ngẩn hoặc tránh sự chống đối từ những người khác.
Nếu có kiến thức sâu hơn thì sẽ có cơ hội nâng cao khả năng giao tiếp trong các
nền văn hóa khác, bán sản phẩm hiệu quả hơn và quản lý được các hoạt động quốc
tế.
* Tập quán
Các cách cư xử, nói năng và ăn mặc thích
hợp trong một nền văn hóa được gọi là tập quán. Trong nền văn hóa Arập từ Trung
Đông đến Tây Bắc Phi, bạn không được chìa tay ra khi chào mời một người nhiều
tuổi hơn ngoại trừ người này đưa tay ra trước. Nếu người trẻ hơn đưa tay ra
trước, đó là một cách cư xử không thích hợp. Thêm vào đó, vì văn hóa Arập xem
tay trái là “bàn tay không trong sạch” nên nếu dùng bàn tay này để rót trà và
phục vụ cơm nước thì bị coi là cách cư xử không lịch sự.
Kết hợp bàn bạc công việc
kinh doanh trong bữa ăn là thông lệ bình thường ở Mỹ. Tuy nhiên, ở Mexico thì
đó lại là điều không tốt ngoại trừ người sở tại nêu vấn đề trước, và cuộc
thương thảo kinh doanh sẽ bắt đầu lại khi uống cà phê hoặc rượu.
* Phong tục
Khi thói quen hoặc cách cư
xử trong những trường hợp cụ thể được truyền bá qua nhiều thế hệ, nó trở thành
phong tục. Phong tục khác tập quán ở chỗ nó xác định những thói quen và hành vi
hợp lý trong những trường hợp cụ thể. Có hai loại phong tục khác nhau đó là phong
tục phổ thông và phong tục dân gian.
Phong tục dân gian thường là cách cư xử bắt đầu từ nhiều thế
hệ trước, đã tạo thành thông lệ trong một nhóm người đồng nhất. Việc đội khăn
xếp ở người đạo Hồi ở Nam Á và nghệ thuật múa bụng ở Thổ Nhĩ Kỳ là phong tục
dân gian, lễ ăn hỏi cô dâu việt nam mặc áo dài đỏ.
Phong tục phổ thông là
cách cư xử chung của nhóm không đồng nhất hoặc nhiều nhóm. Phong tục phổ thông
có thể tồn tại trong một nền văn hóa hoặc hai hay nhiều nền văn hóa cùng một
lúc. Tặng hoa trong ngày sinh nhật, mặc quần Jean blue hay chơi Gôn là phong
tục phổ thông. Nhiều phong tục dân gian được mở rộng do sự truyền bá văn hóa từ
vùng này đến các vùng khác đã phát triển thành những phong tục phổ thong, VD:
ngày valetine tặng hoa và quà.
d. Cấu trúc xã hội
Cấu trúc xã hội thể hiện
cấu tạo nền tảng của một nền văn hóa, bao gồm các nhóm xã hội, các thể chế, hệ
thống địa vị xã hội, mối quan hệ giữa các địa vị này và quá trình qua đó các
nguồn lực xã hội được phân bổ.
Cấu trúc xã hội có ảnh
hưởng đến các quyết định kinh doanh từ việc lựa chọn mặt hàng sản xuất đến việc
chọn các phương thức quảng cáo và chi phí kinh doanh ở một nước. Ba yếu tố quan
trọng của cấu trúc xã hội dùng để phân biệt các nền văn hóa là: Các nhóm xã
hội, địa vị xã hội và tính linh hoạt của xã hội.
* Các nhóm xã hội
Con người trong tất cả các
nền văn hóa tự hội họp với nhau thành các nhóm xã hội rất đa dạng. Hai nhóm
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ảnh hưởng đến các hoạt động kinh
doanh ở mọi nơi là gia đình và giới tính.
+ Gia đình có hai
loại gia đình khác nhau:
- Gia đình cá nhân: Hình thành trên cơ sở các mối quan hệ gần
gũi nhất của một con người gồm cha, mẹ, anh chị em. Khái niệm gia đình này chủ
yếu xuất hiện ở Australia, Canada, Mỹ và các nước châu Âu.
- Gia đình mở rộng: Hình
thành trên cơ sở mở rộng gia đình hạt nhân, trong đó sẽ bao gồm cả ông, bà, cô,
dì, chú, bác, cháu chắt và người thân thích như con dâu, con rể. Nhóm xã hội
này là quan trọng đối với nhiều nước ở châu Á, Trung Đông, Bắc Phi và Mỹ-
Latinh.
Trong những nền văn hóa mà
ở đó nhóm gia đình mở rộng đóng vai trò quan trọng thì các nhà quản lý và nhân
viên thường cố tìm việc làm trong công ty cho những người họ hàng. Thông lệ này
có thể là một thách thức đối với công tác quản lý nguồn nhân lực của các công
ty Tây Âu. VD: Tổng giám đốc mới vào là người châu âu, chủ tịch hội đồng quản
tri là ng Việt.
+ Giới tính:
Mặc dù nhiều quốc gia đã có
tiến bộ trong việc bình đẳng giới tính ở nơi làm việc, nhưng cũng có nhiều nước
không đạt được sự cải thiện nào về vấn đề này. Ví dụ, các quốc gia hoạt động
theo Luật đạo Hồi vẫn còn phân biệt nam và nữ trong các trường trung học, đại
học và các hoạt động xã hội, nghiêm cấm phụ nữ trong những nghề chuyên môn cụ
thể. Một số ngành kinh doanh hoặc vị trí nhân sự phức tạp, đặc biệt hoặc độc
hại chỉ tuyển nam/nữ. VD: cơ trưởng, thợ đào lò là nam…
* Địa vị xã hội
Địa vị xã hội thường được
xác định bởi một hay nhiều yếu tố nằm trong 3 yếu tố sau: Tính kế thừa gia
đình, thu nhập và nghề nghiệp. Ở hầu hết các xã hội, những tầng lớp xã hội cao
nhất thường là những người có uy thế, quan chức chính phủ, doanh nhân kinh
doanh hàng đầu nắm giữ. Các nhà khoa học, bác sĩ và nhiều giới khác có trình độ
đại học chiếm thứ bậc trung bình trong xã hội. Dưới các tầng lớp đó, lao động
có giáo dục trung học và đào tạo nghề cho các nghề nghiệp chân tay và văn
phòng. Mặc dù thứ bậc xã hội là ổn định nhưng mọi người có thể phấn đấu để cải
thiện địa vị của mình.
* Tính linh hoạt của xã hội
Tính linh hoạt của xã hội là sự
dễ dàng đối với các cá nhân có thể di chuyển lên hay xuống trong thứ bậc xã hội
của một nền văn hóa. Đối với hầu hết dân tộc trên thế giới ngày nay, một trong
hai hệ thống quyết định tính linh hoạt của xã hội là: hệ thống đẳng cấp xã hội
và hệ thống giai cấp xã hội.
- Hệ thống đẳng cấp:
Hệ thống đẳng cấp là một hệ thống trong đó
con người được sinh ra ở một thứ bậc xã hội hay đẳng cấp xã hội, không có cơ
hội di chuyển sang đẳng cấp khác.
VD: Ở Ấn Độ cưới xin không
thuộc cùng đẳng cấp là điều cấm kị. Nhiều cơ hội về việc làm và thăng tiến bị
từ chối trong hệ thống, những nghề nghiệp nhất định bị hạn chế đối với thành
viên trong mỗi đẳng cấp. Trong quản lý, một thành viên ở đẳng cấp thấp không
thể giám sát một ai đó ở đẳng cấp cao hơn.
Mặc dù thể chế xã hội Ấn Độ
chính thức cấm sự phân biệt đẳng cấp, nhưng ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại. Tuy
nhiên, tiến trình toàn cầu hóa đưa vào những giá trị mới và hệ thống xã hội này
sẽ phải thích nghi.
- Hệ thống giai cấp
Một hệ thống phân tầng xã hội trong đó khả
năng cá nhân và hành động cá nhân quyết định địa vị xã hội và tính linh hoạt
của xã hội được gọi là hệ thống giai cấp. Đây là hình thức thông dụng trong
phân tầng xã hội trên thế giới ngày nay.
Ý thức về giai cấp của
người dân trong một xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính linh hoạt của xã hội
đó. Các nền văn hóa có ý thức phân tầng cao thường ít linh hoạt hơn và nó phải
trải qua mâu thuẫn giai cấp cao hơn.
Ví dụ, ở các nước Tây Âu
(Anh), các gia đình, tập đoàn giàu có duy trì quyền lực trong nhiều thế hệ. Kết
quả là, họ phải đối mặt với mâu thuẫn giai cấp, điều thường xuyên thể hiện
trong mâu thuẫn quản lý – lao động khi lãnh đạo không có đủ năng lực quản lý. bãi
công và gây thiệt hại về tài sản là hiện tượng rất thông thường và thường dc
người dân phương Tây sử dụng khi ban lãnh đạo ko đáp ứng đầy đủ các cam kết đặt
ra.
Ngược lại, ở mức ý thức
giai cấp thấp hơn sẽ khuyến khích tính linh hoạt xã hội và ít có mâu thuẫn.
Phần lớn các công dân Mỹ cùng chung niềm tin rằng làm việc tích cực có thể cải
thiện các tiêu chuẩn sống và địa vị xã hội của họ. Họ cho rằng các địa vị xã
hội cao hơn gắn với thu nhập cao hơn và sung túc hơn, ít xem xét đến nguồn gốc
gia đình.
e. Tôn giáo
Tôn giáo là một hệ thống
các tín ngưỡng và nghi thức liên quan tới yếu tố tinh thần của con người. Những
giá trị nhân phẩm và những điều cấm kỵ thường xuất phát từ tín ngưỡng tôn giáo.
Các tôn giáo khác nhau có quan điểm khác nhau về việc làm, tiết kiệm và hàng
hóa. DN cần nghiên cứu kỹ vấn đề này để hiểu tôn giáo ảnh hưởng như thế nào đến
tập quán kinh doanh là đặc biệt quan trọng ở các nước có chính phủ thuộc tôn
giáo. VD: kinh doanh các tác phẩm nghệ thuật liên quan tới vấn đề tôn giáo như
tranh, sách, tượng…
Đạo Hồi cấm dung thịt lợn
và rượu, nếu kinh doanh 2 sản phẩm này chắc chắn sẽ bị lỗ…
Tôn giáo không giới hạn
theo biên giới quốc gia và nó có thể tồn tại ở nhiều vùng khác nhau trên thế
giới đồng thời cùng một lúc. Các tôn giáo khác nhau có thể thống trị trong
nhiều vùng khác nhau ở các quốc gia đơn lẻ. Quan hệ giữa tôn giáo và xã hội là
phức tạp, nhạy cảm và sâu sắc.
Một số các tôn giáo chính
như: Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Hinđu giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Do Thái
giáo, và Shinto giáo.
g. Giao tiếp cá nhân
Con người trong mỗi nền văn
hóa có một hệ thống giao tiếp để truyền đạt ý nghĩ, tình cảm, kiến thức, thông
tin qua lời nói, hành động và chữ viết. Hiểu ngôn ngữ thông thường của
một nền văn hóa cho phép chúng ta biết được tại sao người dân nơi đó lại suy
nghĩ và hành động như vậy. Hiểu các hình thức ngôn ngữ khác nhau (ngoài ngôn
ngữ thông thường) của một nền văn hóa giúp chúng ta tránh đưa ra những thông
tin gây ngượng ngùng hoặc ngớ ngẩn.
* Ngôn ngữ thông thường
Mỗi một dân tộc có một ngôn
ngữ đặc trưng riêng của họ. Chỉ có thể hiểu thực sự một nền văn hóa khi biết
ngôn ngữ của nền văn hóa đó, do vậy ngôn ngữ là quan trọng đối với tất cả các
hoạt động kinh doanh quốc tế.
Ví dụ, dân số Malaysia gồm
có người Mã Lai (60%), Trung Quốc (30%) và Ấn Độ (10%). Tiếng Mã Lai là ngôn
ngữ quốc gia chính thức nhưng vẫn có sự dùng đan xen tiếng anh, TQ, Ấn độ nên
có thể xảy ra những xung đột giữa các nhóm sống trên đất nước này.
* Ngôn ngữ chung (ngôn ngữ quốc tế)
Ngôn ngữ chung là ngôn ngữ
thứ 3 hoặc là ngôn ngữ liên kết được hai bên cùng nhau hiểu mà cả hai bên này
đều nói những thứ ngôn ngữ bản địa khác nhau. Mặc dù chỉ 5% dân số thế giới nói
tiếng Anh như là ngôn ngữ thứ nhất, nhưng đó là ngôn ngữ chung phổ biến nhất
trong kinh doanh quốc tế, theo sau là tiếng Pháp và Tây Ban Nha.
Vì hoạt động ở nhiều quốc
gia, mỗi nước có ngôn ngữ riêng, nên các công ty đa quốc gia phải chọn một ngôn
ngữ chung thống nhất dùng cho giao tiếp trong nội bộ. Chẳng hạn như công ty
Sony và công ty Matshushita của Nhật cùng dùng tiếng Anh cho tất cả các thư từ
và giao dịch nội bộ. Việc dịch đúng tất cả thông tin là hết sức quan trọng
trong kinh doanh quốc tế.
Thông thạo ngôn ngữ là vấn
đề quan trọng đối với tất cả các nhà quản lý trong kinh doanh quốc tế hiện nay.
* Ngôn ngữ cử chỉ
Sự truyền tin qua ám hiệu
không âm thanh, bao gồm điệu bộ tay chân, thể hiện nét mặt, ánh mắt trong phạm
vi cá nhân được coi là ngôn ngữ cử chỉ. Giống như ngôn ngữ thông thường, truyền
tin theo ngôn ngữ cử chỉ sẽ bao gồm cả thông tin lẫn tình cảm và nhiều điều
khác của một nền văn hóa này với một nền văn hóa khác.
Phần lớn ngôn ngữ cử chỉ là
rất tinh tế và thường phải mất thời gian để hiểu ý nghĩa của nó. Những điệu bộ
cơ thể thường truyền tải nhiều nghĩa khác nhau trong những nền văn hóa khác
nhau. Ví dụ, ám hiệu ngón cái là thô bỉ ở Italia và Hy Lạp nhưng có nghĩa “mọi
thứ được đấy” hoặc thậm chí là “tuyệt vời” ở Mỹ. Nắm bàn tay và chỉ giơ ngón
giữa là hành động xúc phạm ở Mỹ. Được coi là ngón tay thối.
·
Một số lưu ý về ngôn
ngữ khi tham gia KDQT:
-
Thông thạo tiếng Anh,
có thể Pháp, Tây ban nha.
-
Sử dụng ngôn ngữ chung,
thống nhất trong giao tiếp nội bộ
-
Thận trọng khi sử dụng
ngôn ngữ (nói và viết)
-
Dịch cẩn thận, chính
xác
-
Xác nhận những gì đã
thảo luận bằng văn bản
-
Sử dụng các trợ giúp về
hình ảnh nếu có thể
-
Tránh dùng tiếng long
hoặc các câu thành ngữ khó hiểu…
CÂU 6: TB CÁC LOẠI RỦI RO CHÍNH TRỊ
VÀ GIẢI THÍCH SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CHÚNG ĐẾN HĐ KDQT?
Tất cả các công ty thực hiện kinh doanh vượt ra khỏi
phạm vi một quốc gia đều phải đối mặt với rủi ro chính trị.
Rủi ro chính trị phát sinh
là do những nguyên nhân sau:
-
Sự lãnh đạo của chính
trị yếu kém;
-
Chính quyền bị thay đổi
thường xuyên;
-
Sự dính líu đến chính
trị của các nhà lãnh đạo tôn giáo và quân đội;
-
Hệ thống chính trị
không ổn định;
-
Những vụ xung đột về
chủng tộc, tôn giáo và các dân tộc thiểu số;
-
Sự liên kết kém chặt
chẽ giữa các quốc gia.
* Phân loại rủi ro chính trị
Rủi ro chính trị có thể được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau. Trước hết theo các doanh nghiệp, rủi ro chính trị
được chia làm hai loại:
+ Rủi ro vĩ mô đe dọa đến tất cả các doanh nghiệp không trừ một
ngành nào. Rủi ro vĩ mô ảnh hưởng đến hầu hết các công ty – cả doanh nghiệp
trong và ngoài nước.
+ Rủi ro vi mô tác động đến những công ty thuộc một ngành nào đó
Có ít nhất năm hậu quả mà rủi ro chính
trị gây ra: Xung đột và bạo lực; Khủng bố và bắt cóc; Chiếm đoạt tài sản; Sự
thay dổi các chính sách; Những yêu cầu của địa phương.
- Xung đột và bạo lực
Thứ nhất, xung đột địa phương có thể gây cản trở
mạnh mẽ đến đầu tư của các công ty quốc tế. Bạo lực làm suy yếu khả năng sản
xuất và phân phối sản phẩm, gây khó khăn cho việc nhận nguyên liệu và thiết bị
gây cản trở việc tuyển dụng những nhân công giỏi. Xung đột nô ra cũng đe dọa cả
tài sản (văn phòng, nhà máy và thiết bị sản xuất) và cuộc sống của nhân công. Nguyên
nhân, sự oán giận và bất đồng hướng về chính phủ của họ. Khi mà những giải pháp
hòa bình giữa người dân và chính phủ thất bại, xung đột để thay đổi người lãnh
đạo xảy ra.
Thứ hai, xung đột
diễn ra do tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia
Thứ ba, chiến tranh xảy ra giữa các dân tộc, chủng
tộc và tôn giáo. Ngoài sự tranh chấp ở Pakixtan, xung đột còn thường xuyên xảy
ra giữa đạo Hồi và đạo Hindu ở ngay tại Ấn Độ. Với các công ty hoạt động ở Ấn
Độ, những rủi ro tôn giáo sẽ làm gián đoạn công việc kinh doanh.
- Khủng bố và bắt cóc
Bắt cóc và những cuộc khủng bố khác là
phương tiện để các thế lực khẳng định vị thế chính trị. Khủng bố có mục đích
tạo ra sự lo sợ và ép buộc sự thay đổi thông qua việc gây ra những cái chết và
tàn phá tài sản một cách bất ngờ, thiệt hại nặng nề và không lường trước được. VD:
khủng bố 11-9.
Bắt cóc thường được sử dụng
nhằm tài trợ tài chính cho các hoạt động khủng bố. Các hãng kinh doanh nước
ngoài lớn là mục tiêu chính bởi vì những người làm việc ở đây có thể trả những
khoản chuộc khá hậu hĩnh. Khi những đại diện chính của công ty được bổ nhiệm
sang làm việc ở những nước có nhiều vụ bắt cóc, họ nên đến làm việc một cách
lặng lẽ, chỉ nên gặp một số quan chức chủ chốt địa phương nhằm mục đích bảo vệ
an ninh cho họ và khi trở về nước cũng nên nhanh chóng, lặng lẽ.
- Chiếm đoạt tài sản
Đôi khi một số chính quyền chiếm đoạt tài
sản của các công ty trên lãnh thổ của họ. Sự chiếm đoạt diễn ra dưới 3 hình
thức: Tịch thi, xung công và quốc hữu hóa.
Tịch thu: Là việc
chuyển tài sản của công ty vào tay chính phủ mà không có sự đền bù nào cả.
Thông thường không có cơ sở pháp lý yêu cầu đền bù hoặc hoàn trả lại tài sản.
Xung công: Là việc
chuyển tài sản của tư nhân vào tay chính phủ nhưng được đền bù
Ngày nay, các chính phủ ít
sử dụng đến giải pháp tịch thu hoặc xung công. Bởi vì ảnh hưởng đến thu hút đầu
tư trong tương lai. Các công ty đã đầu tư thì lo sợ mất tài sản và nó cũng ngăn
cản các công ty mới bắt đầu đầu tư vào địa phương nếu việc tịch thu xảy ra.
Quốc hữu hóa: Quốc
hữu hóa phổ biến hơn xung công và tịch thu. Trong khi xung công áp dụng đối với
một hoặc một số công ty nhỏ trong một ngành, thì quốc hữu hóa diễn ra đối với
toàn bộ ngành. Quốc hữu hóa là việc Chính phủ đứng ra đảm nhiệm cả một ngành.
Quốc hữu hóa được các chính
phủ áp dụng vì 4 lý do sau:
(1)
Chính phủ phải quốc hữu
hóa những ngành mà họ cho rằng các công ty nước ngoài chuyển lợi nhuận tới đầu
tư ở những nước khác có tỷ lệ thuế thấp.
(2)
Chính phủ tiến hành
quốc hữu hóa một ngành bởi vì tư tưởng lãnh đạo. Quốc hữu hóa đôi khi là công
cụ chính trị. Nhà nước hứa là sẽ đảm bảo việc làm nếu được quốc hữu hóa.
(3)
Quốc hữu hóa có lẽ là
giải pháp trợ giúp những ngành mà các công ty tư nhân không muốn hoặc không có
khả năng đầu tư, chẳng hạn như đầu tư vào những ngành công cộng. Chính phủ
thường kiểm soát ngành công cộng và tài trợ hoạt động cho các ngành này từ
thuế.
Quốc hữu hóa cũng có sự
khác nhau giữa các quốc gia. Trong khi các chính phủ Cuba, Bắc Triều Tiên kiểm
soát mọi ngành, thì Mỹ và Canada chỉ kiếm soát một số ngành. Các nước khác như
Pháp, Braxin, Mexico, Ban Lan và Ấn Độ cố gắng làm cân bằng giữa sở hữu nhà
nước và sở hữu tư nhân.
- Sự thay đổi các
chính sách
Sự thay đổi chính sách của
chính phủ cũng có thể là do nguyên nhân mất ổn định xã hội hoặc là do có sự
tham gia của các chính đảng mới.
- Những yêu cầu của
địa phương
Luật mà khuyến khích các
nhà sản xuất trong nước cung cấp một số lượng hàng hóa và dịch vụ nào đó gọi là
bảo hộ của địa phương. Chế độ bảo hộ yêu cầu các công ty sử dụng nguồn nguyên
liệu sẵn có của địa phương, mua một phần từ nhà cung cấp địa phương hoặc thuê
một số lượng nhân công nhất định nào đó ở địa phương.
Các yêu cầu của địa phương có
thể gây bất lợi sự tồn tại của các hãng trong dài hạn. Đặc biệt, họ có thể gây
ra hai điểm bất lợi đối với các công ty
1.
Yêu cầu phải tuyển dụng
những nhân công địa phương của họ có thể làm cho các công ty này thiếu những
người làm việc có đủ trình độ.
2.
Yêu cầu các công ty sử
dụng toàn bộ hoặc một phần nguyên, nhiên vật liệu của địa phương dẫn đến chi
phí sản xuất cao, chất lượng giảm sút hoặc cả hai.
CÂU 7: CÁC BIỆN PHÁP MÀ NHÀ QUẢN TRỊ
CÓ THỂ SỬ DỤNG ĐỂ HẠN CHẾ RỦI RO CHÍNH TRỊ LÀ GÌ?
Bên cạnh kiểm soát và dự đoán những khả năng thay đổi
chính trị, các công ty quốc tế phải cố gắng quản lý được rủi ro chính trị mà
những rủi ro này đe dọa đến hoạt động hiện tại cũng như tương lai. Có năm
phương pháp quản lý rủi ro chính trị đó là: né tránh, thích nghi, phụ thuộc,
thu nhập thông tin và những chính sách của địa phương.
- Né tránh
Né tránh đơn giản là hạn chế đầu tư vào
những nước thiếu cơ hội đầu tư. Khi mà rủi ro có thể kiểm soát được và thị
trường địa phương bị xáo trộn, các nhà quản lý tìm cách khác để giải quyết rủi
ro chính trị.
- Thích nghi
Thích nghi có nghĩa là kết
hợp chặt chẽ rủi ro với chiến lược kinh doanh, thường được giúp đỡ của các quan
chức địa phương. Các công ty thu nhận rủi ro qua năm chiến lược: vốn tín dụng
và vốn cổ phần của địa phương, định vị, trợ giúp phát triển, cộng tác và bảo
hiểm.
Vốn tín dụng và vốn cổ
phần ở địa phương. Vốn tín dụng và vốn cổ phần trong đó phải kể đến tài trợ
cho các hoạt động kinh doanh ở địa phương bằng sự trợ giúp của các hãng địa
phương, công đoàn, các định chế tài chính và chính phủ. Sự trợ giúp của các tổ
chức được thuận lợi với điều kiện phải đảm bảo là các thế lực chính trị không
làm gián đoạn các hoạt động trên. Nếu là hoạt động góp vốn, các đối tác chấp
nhận được lãi suất. Nếu là những khoản cho vay, họ nhận được lãi suất. Rủi ro
được giảm xuống bởi vì các đối tác ở địa phương nhận được lợi ích.
Chiến lược định vị: Định
vị đòi hỏi những hoạt động trợ giúp, đó là sự pha trộn sản phẩm hoặc một số yếu
tố kinh doanh khác- thậm chí các công ty chỉ rõ ra- để phù hợp với kiểu thẩm mỹ
và văn hóa.
Trợ giúp phát triển.
Trợ giúp phát triển cho phép các công ty nước ngoài trợ giúp các công ty trong
nước hoặc khu vực trong phát triển mạng lưới thông tin và giao thông, cải thiện
chất lượng cuộc sống ở địa phương. Bởi vì lúc này các công ty và quốc gia đó
trở thành đối tác của nhau và cả hai bên cùng có lợi.
Mức trợ giúp có sự thay
đổi sâu sắc. Đối với các dự án nhỏ, các công ty xây dựng nhà cho người lao
động. Đối với các dự án lớn, các hãng có thể chi ra hàng triệu đô-la để xây
dựng trường học, bệnh viện và nâng cấp cơ sở hạ tầng.
Sự cộng tác: Một
phương thức ngày càng phổ biến trong quản lý rủi ro, sự hợp tác có thể là
phương thức tối ưu trong kế hoạch phát triển công ty, nó là phương thức để chia
sẻ rủi ro.
Bảo hiểm: Các công
ty mua bảo hiểm để chống lại rủi ro chính trị tiềm ẩn. Có một số chính sách bảo
vệ các công ty khi mà chính quyền địa phương hạn chế việc chuyển tiền từ trong
nước ra ngoài nước. Có những hình thức khác hạn chế mất mát do bạo lực, chiến
tranh, khủng bố.
- Duy trì mức độ phụ
thuộc
Thông thường, một công ty
duy trì sự phụ thuộc sở tại vào hoạt động của nó. Công ty phải tiếp cận theo ba
hướng để giải quyết vấn đề này:
1.
Minh chứng được địa
phương được lợi ích qua hoạt động của công ty nước ngoài.
2.
Các công ty nước ngoài
cố gắng sử dụng nguyên vật liệu, công nghệ và một phần nguồn lực sẵn có của địa
phương. Họ cố gắng thuyết phục bất bỳ một sự chiếm đoạt tài sản nào cũng gây ra
khó khăn trong kinh doanh.
3.
Nếu công ty đủ mạnh và
đủ lớn, nó có thể nhận được toàn bộ quyền kiểm soát kênh phân phối ở địa
phương. Nếu nó bị đe dọa, nó có thể từ chối cung cấp cho người tiêu dùng địa
phương và người mua là các công ty địa phương.
Duy trì sự phụ thuộc nhằm: Thứ
nhất, công ty không phát triển nhân công địa phương. Những doanh nghiệp vừa
và nhỏ gặp nhiều khó khăn do sự hiện diện của các doanh nghiệp nước ngoài hùng
mạnh. Thứ hai, các công ty quốc tế phá vỡ nhiều khu vực kinh tế bằng
việc từ chối sử dụng các yếu tố sản xuất do khu vực này cung cấp. Thứ ba,
các công ty này từ chối cung cấp sản phẩm cho địa phương. Thực tế này có ảnh
hưởng xấu đến phúc lợi và an toàn của người dân địa phương, đặc biệt những sản
phẩm này có tầm quan trọng đối với sức khỏe và an ninh.
- Thu thập thông tin
Các hãng kinh doanh quốc tế
phải kiểm soát được thậm chí cố gắng dự đoán trước những sự kiện chính trị đe
dọa hoạt động hiện tại và thu nhập trong tương lai. Có hai nguồn dữ liệu cần
thiết cho việc dự báo rủi ro chính trị chính xác:
(1)
Công ty yêu cầu người
lao động đánh giá mức độ rủi ro chính trị. Những công nhân có thời gian làm
việc ở một nước đủ lâu để hiểu được văn hóa và chính trị ở đây, cũng chính vì
vậy, đây là nguồn thông tin đáng tin cậy.
(2)
Một công ty cũng có
thể thu thập thông tin từ những hãng chuyên cung cấp những dịch vụ về rủi ro
chính trị. Đó là các ngân hàng, chuyên gia phân tích chính trị, các ấn phẩm mới
xuất bản và các dịch vụ đánh giá rủi ro. Nhiều hãng đưa ra các báo cáo rủi ro
chính trị chi tiết kể cả mức độ và nguồn gốc rủi ro cho mỗi quốc gia. Bởi vì
dịch vụ này khá đắt đỏ, cho nên các doanh nghiệp và công ty nhỏ thường quan tâm
những nguồn thông tin miễn phí sẵn có, đáng chú ý là nguồn từ chính phủ.
- Những chính sách
của địa phương
Các nhà quản lý có thể phải
xem xét đến những luật lệ và quy định áp dụng trong kinh doanh ở mỗi quốc gia.
Hơn nữa, pháp luật ở nhiều quốc gia rất dễ thay đổi và luật mới ra đời tiếp tục
tác động đến doanh nghiệp. Để những ảnh hưởng của địa phương có lợi cho họ, các
nhà quản lý đề nghị những định hướng thay đổi có ảnh hưởng tích cực tới họ
Sự tranh thủ ảnh hưởng
chính trị ở địa phương, luôn liên quan đến những nhà làm luật và các chính
trị gia, ảnh hưởng này hoặc trực tiếp hoặc thông qua hậu trường. Những nhà vận
động gặp các quan chức địa phương và cố gắng gây tác động đến những vấn đề liên
quan đến công ty của họ. Họ mô tả những lợi ích mà công ty mang lại cho địa phương,
môi trường tự nhiên, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Mục đích cuối cùng của họ
là nhận được sự ủng hộ của luật pháp.
Tham nhũng: Hối lộ
là một phương pháp chiếm được cảm tình từ giới chính trị. Đôi khi nó là phương
tiện để kiếm được những hợp đồng khác nhau và tiếp cận được những thị trường
nhất định. Vật hối lộ có thể là “bất kỳ cái gì có giá”, có thể là tiền, những
món quà và những hình thức khác.
CÂU 8: NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT ĐẾN KDQT? VD
Các luật lệ và quy định của nước sở tại (luật thương
mại, luật sở hữu trí tuệ, luật đầu tw nước ngoài, luật lđ, thuế, ngân hàng…)
Các quy định, hướng dẫn các tổ chức kinh tế tài chính
quốc tế ban hành đối với các quốc gia thành viên
Luật pháp quốc tế mà quốc gia sở tại phải tuân thủ (HĐ
thương mại quốc tế, luật biển…)
Những tác động
-
quy
định về giao dịch, hợ đồng, bảo vệ các bằng phát minh, sáng chế, luật bảo hộ
nhãn hiệu thương mại, bí quyết công nghệ, quyền tác giả, tiêu chuẩn kế toán
-
những
quy định về tiêu chuẩn sức khỏe an toàn
-
bảo vệ
môi trường
-
quá
trình hình thành doanh nghiệp
-
sử
dụng lao động
-
mức
giá bán, thuế, lợi nhuận…
CÂU 9: KHI PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG KINH
TẾ CẦN LƯU Ý NHỮNG YẾU TỐ NÀO? SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CHÚNG ĐẾN HĐ KDQT NHƯ THẾ NÀO?
1. Các hệ thống kinh tế
Hệ thống kinh tế của một quốc gia bao gồm
cơ cấu và quá trình mà dựa vào đó quốc gia phân bổ các nguồn lực và thực hiện
các hoạt động kinh tế, thương mại của mình.
Người ta thường chia hệ thống kinh tế làm
ba loại: Tư bản chủ nghĩa (kinh tế thị trường – văn hóa định hướng cá nhân); xã
hội chủ nghĩa (kinh tế kế hoạch hóa tập trung - văn hóa định hướng tập thể); và
kinh tế hỗn hợp.
Việc phân chia hệ thống kinh tế thường dựa
trên hai tiêu chí: cách thức sở hữu (công cộng hay tư nhân), cách thức phân bổ
và kiểm soát các nguồn lực (kinh tế thị trường hay kinh tế mệnh lệnh).
Trong nền kinh tế thị trường, các nguồn tài
nguyên được phân phối và quản lý bởi khách hàng. Ở đây, có hai chủ thể đóng vai
trò rất quan trọng là cá nhân và doanh nghiệp, trong đó cá nhân sở hữu các
nguồn lực và sản xuất sản phẩm. Sự biến động của giá cả, số lượng, cung cầu các
nguồn tài nguyên và sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu thị trường. Thực tế
chỉ ra rằng kinh tế thị trường thành công ở hầu hết các nước công nghiệp, đặc
biệt là Mỹ. Tuy nhiên không thể có một nền kinh tế thị trường thuần túy.
Trong nền kinh tế chỉ huy (mệnh lệnh) tập
trung, chính phủ là người trực tiếp điều phối các hoạt động của các khu vực
kinh tế khác nhau. Chính phủ xác định các mục tiêu sản xuất kinh doanh, khối
lượng sản phẩm, dịch vụ, giá cả, … Vì vậy, sự phản ứng và thích nghi của các
doanh nghiệp kinh doanh quốc tế ở môi trường này thường khó khăn, đòi hỏi phải
tính toán và cân nhắc để đưa ra những quyết định lựa chọn một cách thận trọng
nhằm đề phòng và tránh những rủi ro không đáng có.
Trong nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền kinh
tế vận hành theo nền kinh tế thị trường có sự can thiệp của chính phủ với mức
độ khác nhau. Xu hướng chung là chính phủ nên can thiệp có mức độ giới hạn vào
kinh tế thị trường. Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế theo hai cách: (1) sở
hữu trực tiếp, (2) tác động vào việc hình thành và đưa ra các quyết định quản
lý. Sự can thiệp của chính phủ nhiều hay ít vào nền kinh tế đã tạo ra những
thuận lợi, khó khăn, và cơ hội kinh doanh khác nhau cho các doanh nghiệp. Điều
đó đòi hỏi doanh nghiệp phải sớm phát hiện ra những cơ hội hoặc thách thức mới
trong kinh doanh để từ đó có sự điều chỉnh các hoạt động cho thích ứng, tránh
những đảo lộn lớn trong quán trình vận hành, duy trì và đạt những mục đích đã
định trong kinh doanh.
2. Sự phát triển của các quốc gia
a. Các chỉ tiêu đo lường trình độ phát
triển kinh tế của các quốc gia
- GNP (tổng sản phẩm quốc dân) là tổng giá
trị hàng hóa và dịch vụ do một quốc tạo ra trong thời kỳ 1 năm.
- GDP (tổng sản phẩm quốc nội): Là giá trị
hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong phạm vi lãnh thổ của 1 quốc gia trong
thời kỳ 1 năm.
- Thu nhập bình quân trên đầu người:
GDP/người, GNP/người
- Ngang giá sức mua (PPP): Sức mua là giá
trị hàng hóa và dịch vụ có thể mua được bằng một đơn vị đồng nội tệ. phản ánh
khả năng tương quan giữa các đồng tiền của hai quốc gia trong việc mua cùng một
hàng hóa tại chính hai nước này.
- Chỉ số phát triển con người (HDI): Chủ
yếu dựa trên 3 tiêu chí là tuổi thọ, giáo dục và thu nhập. Chỉ tiêu này nhấn mạnh
vào khía cạnh con người của phát triển kinh tế.
b. Phân loại các quốc gia theo cấp độ phát
triển
Thông thường các quốc gia được phân thành
ba loại: Các quốc gia phát triển, các quốc gia đang phát triển và những nước
công nghiệp mới. Sự phân loại này dựa trên một số chỉ tiêu như GNP/người, tỷ lệ
dân cư làm nông nghiệp, tỷ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu trong tổng sản
phẩm xuất khẩu, cơ cấu kinh tế, v.v. Tuy nhiên, không có một ranh giới rõ ràng
trong việc phân loại các quốc gia.
CÂU 10: PHÂN TÍCH CÁC ÁP LỰC CẠNH
TRANH TRONG MỌI NGÀNH SX – KD?
Theo Michael Porter, trong kinh doanh doanh
nghiệp cần quan tâm tới 5 sức mạnh bên ngoài tương ứng với 5 áp lực cạnh tranh.
1. Nguy cơ thay thế (Threat of Substitutes)
Trong mô hình của Porter, thuật ngữ “sản phẩm thay
thế” là đề cập đến sản phẩm thuộc các ngành sản xuất khác. Theo các nhà kinh
tế, nguy cơ thay thế xuất hiện khi nhu cầu về một sản phẩm bị ảnh hưởng bởi sự
thay đổi giá cả của một hàng hóa thay thế. Độ co giãn của cầu theo giá của một
sản phẩm chịu tác động của sự thay đổi giá ở hàng hóa thay thế. Càng có nhiều
hàng hóa thay thế thì cầu sản phẩm càng có độ co giãn cao (có nghĩa là chỉ một
sự thay đổi nhỏ trong giá sản phẩm cũng dẫn đến sự thay đổi lớn trong lượng cầu
sản phẩm) vì lúc này người mua có nhiều sự lựa chọn hơn. Vì vậy, sự tồn tại của
các hàng hóa thay thế làm hạn chế khả năng tăng giá của doanh nghiệp trong một
ngành sản xuất nhất định.
Sự cạnh tranh gây ra bởi nguy cơ thay thế này thường
đến từ các sản phẩm bên ngoài ngành. Giá của các lon đựng nước bằng nhôm bị
cạnh tranh bởi giá của các loại bao bì khác như chai thủy tinh, hộp thép và hộp
nhựa. Ngày nay, giá của các lốp xe mới không đắt đến mức người ta phải vá lại
lốp xe cũ để dùng. Nhưng trong ngành vận tải, lốp mới rất đắt trong khi lốp bị
hỏng rất nhanh, vì vậy ngành vá lốp xe tải vẫn còn phát triển được. Còn trong
ngành sản xuất tã sơ sinh, tã vải là một mặt hàng thay thế và vì vậy, giá của
tã vải đặt giới hạn cho giá của tã giấy.
Mặc dù nguy cơ về hàng thay thế thường ảnh hưởng đến
ngành, thông qua sự cạnh tranh giá cả, nhưng người ta còn quan tâm đến các khía
cạnh khác khi đánh giá về mối nguy cơ này. Hãy xem xét khả năng thay thế của
các loại truyền hình: trạm truyền hình địa phương truyền đến ti vi từng nhà nhờ
tín hiệu vô tuyến, nhưng dịch vụ này có thể bị thay thế bởi dịch vụ truyền hình
cáp, vệ tinh hay truyền hình bằng đường điện thoại. Các công nghệ mới và cơ cấu
thay đổi của các phương tiện giải trí cũng góp phần tạo nên sự cạnh tranh giữa
các phương tiện giải trí có khả năng thay thế lẫn nhau này, trừ những vùng xa
xôi, nơi truyền hình cáp khó có thể cạnh tranh chống lại truyền hình miễn phí
qua ăng-ten với rất ít chương trình giải trí để phục vụ khách hàng.
2.4.2. Sức mạnh của khách hàng (Buyer Power)
Sức mạnh khách hàng là ảnh hưởng của khách hàng đối
với một ngành sản xuất nào đó. Nhìn chung, khi sức mạnh khách hàng lớn, thì mối
quan hệ giữa khách hàng với ngành sản xuất sẽ gần với cái mà các nhà kinh tế
gọi là độc quyền mua – tức là thị trường có nhiều nhà cung cấp nhưng chỉ có một
người mua. Trong điều kiện thị trường như vậy, khách hàng có khả năng áp đặt
giá. Nếu khách hàng mạnh, họ có thể buộc giá hàng phải giảm xuống, khiến tỷ lệ
lợi nhuận của ngành giảm. Có rất ít hiện tượng độc quyền mua trên thực tế,
nhưng vẫn thường tồn tại mối quan hệ không cân bằng giữa một ngành sản xuất và
người mua. Khách hàng có sức mạnh lớn khi:
+ Khách hàng có tính tập trung cao, tức là có ít khách
hàng chiếm một thị phần lớn.
+ Khách hàng mua một lượng lớn sản phẩm sản xuất ra
trong bối cảnh kênh phân phối hoặc sản phẩm đã được chuẩn hóa. Ví dụ thị trường
bán lẻ rộng lớn của các hãng Circui City và Sear giúp cho họ nắm được quyền lực
tương đối để áp đặt giá cả với các nhà sản xuất đồ gia dụng.
+ Khách hàng có khả năng sát nhập hay thậm chí là mua
hãng sản xuất. Ví dụ điển hình là các nhà sản xuất ô tô lớn rất có thể mua hãng
sản xuất lốp xe.
2.4.3. Sức mạnh của nhà cung cấp (Supplier Power)
Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện khả năng quyết định
các điều kiện giao dịch của họ đối với doanh nghiệp. Những nhà cung cấp yếu thế
có thể phải chấp nhận các điều khoản mà doanh nghiệp đưa ra, nhờ đó doanh
nghiệp giảm được chi phí và tăng lợi nhuận trong sản xuất. Ngược lại, những nhà
cung cấp lớn có thể gây sức ép đối với ngành sản xuất bằng nhiều cách, chẳng
hạn đặt giá bán nguyên liệu cao để san sẻ phần lợi nhuận của ngành. Một số yếu
tố quyết định sức mạnh của nhà cung cấp là:
+ Mức độ tập trung của các
nhà cung cấp: Sức mạnh của nhà cung cấp sẽ rất lớn, nếu mức
độ tập trung của họ cao. Nếu nhà cung cấp của một doanh nghiệp phải cạnh tranh
với nhiều nhà cung cấp khác, thì có khả năng là họ sẽ phải chấp nhận những điều
khoản bất lợi hơn, vì doanh nghiệp có thể nhanh chóng chuyển sang đặt hàng của
nhà cung cấp khác, do đó, nhà cung cấp buộc phải chấp nhận tình trạng bị ép
giá. Sức mạnh nhà cung cấp tăng lên, nếu mức độ tập trung trong lĩnh vực cung
cấp cao.
+ Mức độ chuẩn hóa của đầu
vào: Việc đầu vào được
chuẩn hóa cũng làm tăng tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp và do vậy làm
giảm sức mạnh của họ, chẳng hạn như mối quan hệ giữa các nhà sản xuất lốp (nhà
cung cấp) với các nhà sản xuất xe hơi.
+ Chi phí thay đổi nhà cung
cấp: Chi phí này càng
cao thì doanh nghiệp sẽ càng phải chịu nhiều điều khoản bất lợi mà nhà cung cấp
đặt ra, vì việc chuyển từ nhà cung cấp này sang nhà cung cấp khác sẽ buộc doanh
nghiệp sản xuất phải chịu các chi phí khổng lồ. Mối quan hệ giữa Microsoft (với
vai trò nhà cung cấp) với các nhà sản xuất máy vi tính thể hiện rõ điều này.
+ Nguy cơ tăng cường hợp nhất giữa
nhà cung cấp và đơn vị sản xuất,
chẳng hạn như hãng sản xuất đồ uống mua các tiệm rượu, hay hãng Baxter
International – nhà sản xuất các thiết bị y tế – mua lại nhà phân phối American
Hospital Supply. Khả năng này càng cao thì sức mạnh của nhà cung cấp càng lớn.
+ Sức mạnh của doanh nghiệp
thu mua: Trong giao dịch
thương mại, sức mạnh của khách hàng đương nhiên sẽ làm giảm sức mạnh của nhà
cung cấp. Sức mạnh này được thể hiện rõ một khi khách hàng tẩy chay không mua
sản phẩm.
2.4.4. Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn
Theo M-Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh
nghiệp hiện chưa có mặt trên trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong
tương lai. Đối thủ tiềm ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu
sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như: Sức hấp dẫn của ngành (tỷ suất lợi nhuận, số
lượng doanh nghiệp trong ngành, v.v.), những rào cản gia nhập ngành (trình độ
kỹ thuật, vốn, hệ thống phân phối, thương hiệu, ..), và các nguồn lực đặc thù
như nguyên vật liệu bị kiểm soát, bằng phát minh sáng chế, sự bảo hộ của chính
phủ, v.v
2.4.5. Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành
Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành
sẽ cạnh tranh trực tiếp với nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một
cường độ cạnh tranh. Trong một ngành, các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh
tranh lên các đối thủ:
+ Tình trạng ngành: Nhu cầu, độ tốc độ tăng
trưởng, số lượng đối thủ cạnh tranh, ...
+ Cấu trúc của ngành: Ngành tập trung hay phân
tán (Ngành phân tán là ngành có rất nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau
nhưng không có doanh nghiệp nào có đủ khả năng chi phối các doanh nghiệp còn
lại, còn ngành tập trung là ngành chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp nắm giữ
vai trò chi phối)
+ Các rào cản rút lui: Giống như các rào cản
gia nhập ngành, rào cản rút lui là các yếu tố khiến cho việc rút lui khỏi ngành
của doanh nghiệp trở nên khó khăn
CÂU 11: TB MỤC TIÊU VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC PHÂN TÍCH MÔI
TRƯỜNG QUỐC GIA TRONG KDQT?
1. Mục tiêu của việc phân tích
môi trường quốc gia trong kinh doanh quốc tế
Mục tiêu là phải
tìm ra và xác định chính xác các nhân tố cơ bản có ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh quốc tế cuả công ty, nắm và dự đoán được xu hướng vận động
để từ đó đưa ra chiến lược hội nhập thích ứng, tạo điều
kiện cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. Việc phân tích kinh doanh phải
đảm bảo các yếu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phân tích môi trường phải chỉ ra được những
cơ hội kinh doanh cho công ty trong việc xâm nhập thị trường, kinh doanh sản
phẩm, dịch vụ, đầu tư.
Thứ hai, việc phân tích phải tính đến những mối đe dọa,
thách thức của môi trường đối với công ty, để từ đó giúp công
ty tiến hành những hoạt động thích ứng nhằm chớp thời cơ đạt kết quả lớn.
Thứ ba, phải nắm được khả năng nội tại của công ty,
nếu không đánh giá đúng khả năng mà đưa ra mục đích quá cao,
chắc chắn sẽ khó thành công, thậm chí thất bại. Việc đánh giá tiềm năng của công
ty được xem xét trên các mặt: khă năng về vốn; tiềm năng về công nghệ; về năng
lực quản lý; phân phối, chất lượng sản phẩm, mẫu mã...
Như vậy, sự phân
tích môi trường kinh doanh quốc tế nhằm giúp cho công ty thích ứng và thích
nghi trong các hoạt động kinh doanh, giảm thách thức và tăng thời cơ kinh
doanh, gia tăng kết quả và hạn chế rủi ro.
2. Yêu cầu của việc phân tích
môi trường quốc gia kinh doanh quốc tế
Doanh nghiệp điều
chỉnh các hoạt động của mình cho phù hợp với các yêu cầu và cơ hội ở nước ngoài
nghĩa là doanh nghiệp không thể can thiệp vào môi trường để làm thay đổi nó,
trái lại doanh nghiệp phải tự điều chỉnh cho phù hợp với môi trường
mới. Ở đây các phương thức kinh doanh hoàn toàn mới mẻ.
Về cơ bản, doanh
nghiệp phải chấp nhận môi trường nước ngoài, nếu như muốn tham gia vào hoạt
động kinh doanh ở đó. Tuỳ theo hiện trạng của từng môi trường, doanh nghiệp tìm
ra cách thức hội nhập thích ứng, nhằm tạo thời cơ mới cho hoạt
động kinh doanh cuả doanh nghiệp, cho phép doanh nghiệp được thực hiện những
hình thức kinh doanh nào, hình thức nào là chủ yếu, hình thức
nào được thực hiện...
Để thực hiện các
hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong môi trường có hệ thống kinh tế, chính
trị, luật pháp, văn hoá... khác nhau, trước hết các doanh nghiệp phải đưa ra
những lời giải thích hữu hiệu cho các vấn đề cơ bản dưới đây:
(1) Ở các quốc gia
mà các công ty sẽ hoạt động kinh doanh, cơ cấu chính trị có đặc điểm gì, ảnh
hưởng của nó tới hoạt động của doanh nghiệp ra sao?
(2) Quốc gia đó
(nước sở tại) hoạt động theo hệ thống kinh tế nào?
(3) Ngành công
nghiệp của nước sở tại thuộc khu vực tư nhân hay công cộng?
(4) Nếu ngành công
nghiệp đó thuộc khu vực công cộng thì chính phủ có cho phép cạnh tranh ở khu
vực đó không? Hoặc nếu có ở khu vực tư nhân thì xu hướng có chuyển sang khu vực
công cộng không?
(5) Chính phủ sở
tại có cho phép nước ngoài tham gia cạnh tranh hay kết hợp với doanh nghiệp nhà
nước hoặc tư nhân không?
(6) Nhà nước điều
hành quản lý các doanh nghiệp tư nhân như thế nào?
(7) Các doanh
nghiệp tư nhân phải đóng góp bao nhiêu cho chính phủ để thực hiện các mục tiêu, nhiệm
vụ kinh tế chung.
Việc trả lời các
vấn đề trên không đơn giản mà khá phức tạp vì sự biến đổi của hệ thống chính trị,
kinh tế, pháp luật... đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, tình hình kinh tế chính
trị trên thế giới đang có nhiều biến động. Tuỳ thuộc vào mục đích và hoạt động
kinh doanh cụ thể của mình mà công ty lựa chọn môi trường kinh
doanh cho phù hợp. Dựa vào kết quả nghiên cứu môi trường kinh doanh quốc tế,
công ty phải xác định được nên kinh doanh ở nước nào, hình thức kinh doanh nào
là chủ yếu.
- Nếu là hoạt động
xuất nhập khẩu thì mặt hàng kinh doanh là mặt hàng gì, quy cách, chất lượng,
phẩm chất, nhãn hiệu, bao bì... như thế nào.
- Nếu là hoạt động
kinh doanh đầu tư thì loại hình nào là thích hợp, nguồn vốn dự kiến là bao
nhiêu, lấy ở đâu.
Trên cơ sở kết quả
của việc nghiên cứu, phân tích môi trường kinh doanh, cho phép các nhà quản lý
xây dựng các chiến lược kinh doanh quốc tế: Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá,
dịch vụ, chiến lược đầu tư quốc tế, chiến lược chuyển giao công
nghệ, chiến lược cạnh tranh...
Các chiến lược này
được thực hiện có hiệu quả đến mức nào, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào khả
năng thích ứng và ứng xử linh hoạt của công ty cho phù hợp với sự thay đổi của
môi trường kinh doanh.
Muốn vậy, cần đánh
giá chính xác và phát hiện kịp thời các cơ hội kinh doanh ở nước ngoài, thực
hiện các hợp đồng kinh doanh đa dạng; lựa chọn thị trường mục tiêu có hiệu quả;
linh hoạt thích ứng với những thay đổi có tính chất toàn cầu.
CÂU 12: KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ?
a) Khái Niệm:
Thương mại quốc tế là hoạt
động mua bán hoặc trao đổi hàng hóa và dịch vụ vượt qua biên giới của các quốc
gia. Các DN KDTMQT phải hđ trong môi trường có tính quốc tế và phải thường
xuyên đối phó với những tác động của môi trường này.
Việc tiến hành các hđ TMQT
sẽ tùy thuộc vào các mục tiệu của công ty và các phương tiện mà công ty lựa
chọn thực hiện.
b) Vai trò của TMQT
·
Đối
với DN: TMQT là một bộ phận của nền kinh tế liên quan đến quá trình trao đổi
hàng hóa, dịch vụ với các nước khác. Mục tiêu đầu tiên của DN là đạt được lợi
nhuận, cụ thể:
- Thông qua TMQT, DN tăng
hiệu quả sxkd, mở rộng quy mô và đa dạng hóa các hđ sxkd, giúp DN đạt đc sư
tăng trưởng bền vững.
- KD TMQT giúp nâng cao vị
thế của DN, tạo thế và lực cho DN trên thị trường quốc tế và thị trường trong
nước, thong qua việc mua bán và trao đổi hàng hóa và mở rộng quan hệ bạn hàng.
- KD TMQT có vai trò điều
tiết, hướng dẫn sxkd của DN.
·
Đối
với nền kinh tế quốc dân:
- KD TMQT tạo điều kiện để
sử dụng tốt hơn nguồn vốn lao động và tài nguyên của đất nước, tăng giá trị
ngày công lđ, tăng thu nhập quốc dân, tăng hiệu quả sản xuất, tạo vốn và kỹ
thuật bên ngoài cho nền sản xuất trong nước kích thích sự phát triển của lực
lượng sản xuất, làm nảy sinh các nhu cầu tiềm tàng của NTD.
- KD TMQT góp phần mở rộng
các QH kinh tế đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của VN trên trường quốc tế.
CÂU 13: TB LÝ THUYẾT VỀ THUYẾT TUYỆT
ĐỐI, THUYẾT TƯƠNG ĐỐI VÀ THUYẾT CẠNH TRANH QUỐC GIA?
- Học thuyết về lợi thế tuyệt đối
- Tác giả: Adam Smith
(scotlen) 1776
Một nước được coi là có lợi thế
tuyệt đối về một sản phẩm khi sp đó được sản xuất ra với chi phí thấp hơn các
nước khác (hay năng suất lao động để sản xuất ra mặt hàng đó là cao hơn so với
các nước khác).
·
Vì
vậy, quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu mặt hàng mà quốc gia đó
có lợi thế tuyệt đối và trao đổi với quốc gia khác để nhập khẩu các sp mà quốc
gia đó không có lợi thế tuyệt đối.
·
Lợi thế
tuyệt đối chính là cơ sở của TMQT và việc trao đổi buôn bán giữa các quốc gia
dựa trên sự tự nguyện và các bên cùng có lợi.
- Đối tượng: ngành sản xuất
tương tự ở các quốc gia khác nhau
- Mô hình lý thuyết lợi thế
tuyệt đối:
Giả sử 2 quốc gia đang
tiến hành sx 2 loại: vải và lương thực
Sản phẩm
|
Việt nam
|
Mỹ
|
Lợi thế tuyệt đối
|
Vải (m/h)
|
1
|
6
|
Mỹ
|
Lương thực (kg/h)
|
5
|
4
|
Việt nam
|
Sau đó, 2 quốc gia sẽ tiến
hành trao đổi sp với nhau thong qua xuất nhập khẩu, cụ thể:
·
Mỹ xk
vải, nk lương thực
·
VN xk
lương thực, nk vải
Từ đó, sản lượng của 2 sản phẩm này sẽ tăng lên và 2
quốc gia sẽ sung túc hơn trước
- Ví dụ minh họa:
Giả sử: VN và Mỹ mỗi nước có 24h
để sx và 24h được chia đều cho 2 ngành sản xuất lương thực và vải.
·
TH1:
sx tự cấp, tự túc sản lượng vải và lương thực được thể hiện như sau:
Sản phẩm
|
VN
|
Mỹ
|
Slg khi chưa
chuyên môn hóa của VN
|
Slg khi chưa
chuyên môn hóa của Mỹ
|
Slg khi chưa
chuyên môn hóa của TG
|
Vải (m/h)
|
1
|
6
|
12
|
72
|
84
|
Lương thực (kg/h)
|
5
|
4
|
60
|
48
|
108
|
·
TH2:
khi 2 nước tham gia vào TMQT (có sự chuyên môn hóa)
Tức là: VN dùng 24h để sx lương thực, Mỹ dùng 24h để
sx vải
Sản phẩm
|
VN
|
Mỹ
|
Slg khi chưa
chuyên môn hóa của VN
|
Slg khi chưa
chuyên môn hóa của Mỹ
|
Slg khi chưa
chuyên môn hóa của TG
|
Vải (m/h)
|
1
|
6
|
0
|
144
|
144
|
Lương thực (kg/h)
|
5
|
4
|
120
|
0
|
120
|
- Kết luận: Nhờ chuyên môn
hóa và trao đổi sản lượng của toàn thế giới tăng lên không chỉ đáp ứng đủ nhu
cầu của các nước trong trường hợp tự cung, tự cấp mà còn dư 60m vải và 12kg
lương thực. tham gia TMQT là có lợi.
- Ưu điểm của học thuyết:
·
Quan
điểm mới về bản chất sự giàu có của các quốc gia. Sự giàu có của một quốc gia
phụ thuộc vào số lượng hàng hóa mà quốc gia đó sản xuất ra chứ không phải phụ
thuộc vào lượng tiền tệ mà quốc gia đó có được.
·
TMQT
đem lại lợi ích cho cả 2 nước tham gia thong qua việc thực thi nguyên tắc phân
công lđ.
·
Khẳng
định TMQT có lợi cho tất cả các quốc gia và CP nên thực hiện chính sách không
can thiệp vào hđ TMQT nói riêng và hđ kinh tế nói chung.
- Hạn chế của học thuyết:
·
Chưa
giải thích được 1 quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong sx mọi mặt hàng thì có
cần thiết tham gia TMQT không?
·
1 quốc
gia không có lợi thế tuyệt đối trong sx bất cứ mặt hàng nào thì quốc gia đó có
thể tham gia TMQT được ko?
·
Giữa
các quốc gia có điều kiện sx khá giống nhau cùng có lợi thế về 1 sản phẩm thì
có trao đổi, buôn bán với nhau được không?
- Học thuyết về lợi thế tương đối
(lợi thế so sánh)
- Tác giả: David Ricardo
1817
- ND:
·
Mọi
nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lđ quốc tế và TMQT. Vì TMQT cho phép
mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia do chỉ chuyên môn hóa vào sx một số
sp nhất định và xk sp của mình để đổi lấy hàng hóa nhập khẩu từ nước khác.
·
Những
nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn so với các nước khác, hoặc kém lợi thế hoàn
toàn so với các nước khác trong sx mọi loại sp thì vẫn có thể và có lợi khi
tham gia vào phân công lđ quốc tế và thương mại quốc tế. Vì mỗi nước có lợi thế
so sánh (tương đối) nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một
số mặt hàng khác.
·
Lợi
thế so sánh chỉ sự khác biệt về chi phí sx tương đối (chi phí cơ hội)
·
Một
quốc gia có lợi thế so sánh trong việc sản xuất một mặt hàng nào đó nếu nước đó
có chi phí sx tương đối (chi phí cơ hội) sx mặt hàng đó thấp hơn các nước khác
(hay năng suất lđ tương đối cao hơn các nước khác).
·
Công
thức xác định lợi thế so sánh của một quốc gia: A có lợi thế so sánh trong sx
mặt hàng X nếu:
CF sx ra 1 đơn vị hh X của A < CF sx ra 1 đơn vị
hh X của B
CF sx ra 1 đơn vị hh Y của A CF sx ra 1
đơn vị hh Y của B
- Đối tượng: ngành sx khác
nhau ở trong nước
- Mô hình lý thuyết lợi thế
so sánh: CF sx X và Y của A và B
Quốc gia
|
X (lđ/kg)
|
Y (lđ/m)
|
CF cơ hội sx 1 đơn vi hh X/Y
|
Lợi thế so sánh
|
A
|
50
|
100
|
0,5
|
X
|
B
|
200
|
250
|
0,8
|
Y
|
Quốc gia A nên chuyên môn hóa sx X, B
nên chuyên môn hóa sx Y. sau đó, 2 quốc gia trao đổi hàng hóa cho nhau dưới
dạng xuất nhập khẩu
- Ví dụ: xét 2 QG A, B trong
đó A có lợi thế tuyệt đối cả X và Y
Quốc gia
|
Gạo_X (lđ/tấn)
|
Chè_Y (lđ/tấn)
|
CF cơ hội sx 1
đơn vi hh X/Y
|
Lợi thế so sánh
|
A
|
1
|
2
|
½=0,5
|
Gạo (X)
|
B
|
6
|
3
|
6/3=2
|
Chè (Y)
|
TH1: khi chưa có chuyên môn hóa
Sản phẩm
|
Số lđ ở A (người)
|
Số lđ ở B (người)
|
Sản lượng ở A (tấn)
|
Sản lượng ở B (tấn)
|
Gạo
|
1
|
6
|
1
|
1
|
Chè
|
2
|
3
|
1
|
1
|
Khi đó, tỉ lệ trao đổi
quốc tế: gạo/chè= 7/5=1,4
1 gạo=1,4 chè
TH2: khi có sự chuyên môn hóa sx: A tập trung sx gạo:
chuyển 2 lđ sx chè sang sx gạo.
B tập trung sx
chè: chuyển 6 lđ sx gạo sang sx chè.
Sản phẩm
|
Số lđ ở A (người)
|
Số lđ ở B (người)
|
Sản lượng ở A (tấn)
|
Sản lượng ở B (tấn)
|
Quy đổi theo tỉ lệ TĐQT
|
Quốc gia A
|
Quốc gia B
|
Gạo
|
3
|
0
|
3
|
0
|
1
|
10/7
|
Chè
|
0
|
9
|
0
|
3
|
2,8 (2x1,4)
|
1
|
Kết luận: khi có chuyên môn hóa
A thu được nhiều hơn 1,8 tấn chèB thu được nhiều hơn 3/7 tấn gạo (0,429)
- Ưu điểm của học thuyết:
·
Khẳng
định mọi quốc gia đều có lợi khi tham gia TMQT, cho dù quốc gia đó có lợi thế
tuyệt đối trong tất cả các mặt hàng hay không có lợi thế tuyệt đối về tất cả
các mặt hàng nào.
- Hạn chế:
·
Chưa
tính đến cơ cấu tiêu dùng của một nước nên không thể xđ giá tương đối mà các
nước dùng để trao đổi sp.
·
Không đề cập tới chi phí vận tải, bảo hiểm… là yếu tố có
tính chất quyết định đến hq TMQT
·
Miêu tả nền kinh tế thế giới ở mức độ chuyên môn hóa quá
mức, không có trong thực tế.
- Học thuyết lợi thế cạnh tranh
quốc gia
- Tác giả: Michael porter
1990
- ND:
·
Giải
thích một quốc gia tại sao lại thành công trong cạnh tranh quốc tế ở ngành công
nghiệp này nhưng thất bại ở ngành công nghiệp khác.
·
Một
quốc gia sẽ thành công ở những ngành có tồn tại 4 yếu tố ở mức độ cao đó là:
* Chiến lược, cơ cấu, cạnh
tranh giữa các công ty:
- các quyết định chiến lược
của công ty ảnh hưởng lâu dài đến khả năng cạnh tranh trong tương lai.
- Cơ cấu ngành phân tán hay
hợp nhất
- Cạnh tranh giữa các công
ty trong nước càng ác liệt thì khả năng cạnh tranh quốc tế của các công ty đó
càng cao.
* Điều kiện về các yếu tố
sx:
- các yếu tố cơ bản: nguồn
lao động, tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, dân số…
- yếu tố tiên tiến: Trình độ
kỹ năng của các nhóm lđ, chất lượng cơ sở hạ tầng (kết quả của sự đầu tư vào
các lĩnh vực giáo dục và đổi mới)
- yếu tố cơ bản tạo cơ sở
ban đầu cho việc sản xuất mặt hàng nào đó, còn yếu tố tiên tiến là cần thiết để
duy trì lợi thế cạnh tranh quốc gia trong sx mặt hàng đó.
* Điều kiện cầu:
- đề cập tới tính chất của
nhu cầu trong nước đối với sản phẩm hay dịch vụ của ngành
- nếu điều kiện trong nước
đòi hỏi cao sẽ buộc công ty phải tiếp cận với sản phẩm hiện có làm gia tăng khả
năng cạnh tranh.
* Các ngành công nghiệp hỗ
trợ và liên quan:
- các công ty nằm trong
nghành có khả năng cạnh tranh cao, không thể tồn tại một cách biệt lập.
- sự hình thành các nhóm
ngành có hợp đồng kinh tế liên quan với nhau trên cùng 1 khu vực địa lý sẽ nâng
cao năng suất và khả năng cạnh tranh của mỗi ngành trong nhóm.
CÂU 14: PHÂN TÍCH LÝ DO CAN
THIỆP VÀO THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA CÁC CHÍNH PHỦ?
Có 3 nhóm lý do để chính phủ can thiệp
vào thương mại quốc tế:
·
Lý do
văn hóa: Bảo vệ bản sắc và truyền thống dân tộc
·
Lý do
chính trị:
- Bảo vệ việc làm cho người
dân của quốc gia
- Bảo vệ người tiêu dùng
trong nước
- Bảo vệ an ninh quốc phòng
cho quốc gia
- Trả đũa thương mại
- Tạo lập ảnh hưởng của quốc
gia đối với thế giới
·
Lý do
kinh tế:
- Bảo vệ các ngành kinh tế
non trẻ
- Theo đuổi chính sách TM
chiến lược
CÂU 15: TB CÁC BIỆN PHÁP (CÔNG CỤ)
PHỔ BIẾN CAN THIỆP VÀO THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
- Các biện pháp thúc đẩy thương
mại:
1.1 Trợ cấp
Cách làm: Hỗ trợ tài chính dành cho các nhà sx trong
nước dưới hình thức tiền mặt, cho vay với lãi suất thấp, miễn giảm thuế và trợ
giá.
Mục đích: giúp dn trong nước tăng khả năng tranh trên
thị trường trong và ngoài nước
Hạn chế: - kích thích tình trạng sx không hiệu quả và
tính ỷ lại của người sản xuất trong nước
- Nguồn lực có thể bị sử
dụng tăng phí
- Người tiêu dùng bị thiệt
hại.
Chú ý: hiện nay, WTO không cho trợ cấp trực tiếp mà
chỉ cho trợ cấp gián tiếp.
1.2 Tài trợ xuất khẩu
Thúc đẩy xuất khẩu bằng cách giúp các DN tài trợ cho
hoạt động xuất khẩu của mình.
Cách làm: Cung cấp các khoản vay với lãi suất thấp,
bảo lãnh các khoản vay của DN, tài trợ quảng cáo hay R&D.
1.3 Khu vực mậu dịch tự do:
Thúc đẩy trao đổi thương mại thong qua việc thành lập
khu vực mậu dịch tự do
1.4 Các tổ chức chuyên trách
của Chính Phủ
- Thành lập các tổ chức
chuyên trách nhằm thúc đẩy hđ xuất khẩu (Tổ chức xúc tiến thương mại).
+ Tổ chức các chuyến khảo
sát thương mại ở nước ngoài
+ Thiết lập các VP đại
diện ở nước ngoài
+ Quảng cáo về hiệp hội
và Dn, cung cấp thông tin
- Tạo điều kiện thuận lợi
cho nhập khẩu những mặt hàng mà quốc gia không sx hoặc ko sx được (tổ chức các
cuộc gặp gỡ, giúp đỡ Dn nước ngoài đặt văn phòng đại diện…)
- Các công cụ hạn chế thương mại:
Thuế quan và phi thuế quan
a) thuế quan: là khoản tiền
mà chính phủ đánh vào mặt hàng được đưa vào hay đưa ra một nước.
- thuế quan xuất khẩu: áp
dụng khi giá xk của mặt hàng nào đó thấp hơn giá thực tế trên thị trường.
- Thuế quá cảnh: đánh và
những hàng hóa được chuyển ngang qua lãnh thổ (hiện nay hầu như được xóa bỏ)
- Thuế quan nhập khẩu: áp
dụng đối với hàng hóa nhập khẩu vào một quốc gia.
Cách tính:
+ theo giá trị: XĐ bằng một tỷ lệ % nhất định đối với
mức giá hàng nk.
+ Theo số lượng: Trả một khoản tiền nhất định khi nhập
khẩu một đv hàng hóa
Lý do đánh thuế nk:
- bảo vệ sx trong nước
- tạo nguồn thu cho ngân
sách CP
b) hạn ngạch: Chính phủ quy
định số lượng hh đc đua vào hay đưa ra khỏi một nước trong một khoảng time nhất
định.
- hạn ngạch nhập khẩu: CP
cấp cho các DN trong nước hoặc cho CP ngoài nước.
Mục đích: + Bảo vệ nhà sx trong nước
+ tạo sự cạnh tranh
giữa các nhà xk nước ngoài
- hạn ngạch xuất khẩu: cấp
cho Dn trong nước
Mục đích: duy trì mức cung thích hợp với thị trường
trong nước. Giảm lượng cung trên thị trưởng thế giới từ đó tăng giá bán.
c) hạn ngạch thuế quan: kết
hợp giữa thuế quan và hạn ngạch
- nước nhập khẩu đề ra một
mức hạn ngạch nhất định và áp duungj mức thuế quan thấp đối với lượng hh nk
thấp hơn mức hạn ngạch đó (nếu lượng nk cao hơn. Mức thuế quan sẽ cao hơn)
d) hạn chế xk tự nguyện: hạn
ngạch do nước xk tự nguyện áp đặt đối với hđ xk của mình theo yêu cầu của nước
nk. Áp dụng khi nước nk đe dọa sử dụng hạn ngạch nk hoặc cấm hoàn toàn việc nk
mặt hàng nào.
e) Cấm vận Thương mại: cấm
hoàn toàn hđ thương mại (XNK) đối với một quốc gia nào đó.
- có thể thực hiện với một
hoặc một vài thậm chí tất cả các mặt hàng
h) yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa: quy định một mặt hàng
nào đó chỉ có thể bán trên thị trường của một nước nếu như một phần nhất định
của nó đc cung cấp bởi các nhà sx nội địa.
i) Luật chống phá giá: Nước nk đc phép thu thuế tăng
them đối với những sp đã xk phá giá ở mức giá thấp để giành thị phần và cạnh
tranh với địa phương
k) các biện pháp khác:
- quy định về thủ tục hành chính
- Tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tế, bảo vệ môi
trường (sp phải đáp ứng các tiêu chuẩn về kích cớ, trọng lượng, sức khỏe, an
toàn… )
- kiểm soát ngoại hối.
CÂU 16: KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA FDI?
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh tế
hoặc cá nhân nước ngoài tự mình hay kết hợp với các tổ chức khác bỏ vốn vào một
đối tượng nhất định, trực tiếp quản lý và điều hành để thu lợi trong kinh
doanh. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được tiến hành thông qua
các dự án – gọi là dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Vai trò của đầu tư
quốc tế đối với nước chủ đầu tư
Trong xu thế
toàn cầu hoá và hội nhập, vai trò của đầu tư quốc tế ngày càng quan trọng không những đối với các nước đang phát triển mà ngay cả các nước tư bản phát
triển, vai trò của đầu tư quốc tế cũng hết sức quan trọng.
Tích cực:
- Đa số nước chủ
đầu tư là nước công nghiệp phát triển, tỷ suất lợi nhuận đang có xu hướng giảm xuống, kèm theo hiện tượng thừa tương đối vốn. Bằng hình thức đầu tư
quốc tế, chủ đầu tư mong muốn giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm nhằm
tăng thu lợi nhuận từ đó tăng thu GNP.
- Đầu tư quốc tế
khắc phục được tình trạng lão hoá sản phẩm. Thông qua đầu
tư quốc tế, chủ đầu tư di chuyển sản phẩm công
nghiệp như máy móc, thiết bị... đang ở tình trạng lão hoá sang các nước đang
phát triển - các nước nhận đầu tư.
- Mặt khác, đầu tư quốc tế còn giúp chủ đầu tư xây dựng thị trường cung
cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng bằng cách khai thác, sử dụng nguyên
liệu dồi dào tại các nước nhận đầu tư.
- Đầu tư quốc tế
giúp nước chủ đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh, bành trướng sức mạnh về kinh tế
và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế.
Tiêu cực:
- giảm dòng vốn
tiết kiệm và tăng tỉ lệ thất nghiệp trong nước.
- mất tính cạnh
tranh của các hàng hóa
- chảy máu ngoại
tệ.
b. Vai trò của đầu tư
quốc tế đối với nước nhận đầu tư
* Đối với các nước phát triển
Tích cực:
- giải
quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế - xã hội như khó khăn về vốn, thất nghiệp, lạm
phát.
- cứu nguy cho các xí nghiệp có nguy cơ bị
phá sản do các chủ đầu tư nước ngoài mua lại những xí nghiệp đó.
- Tăng thu ngân
sách dưới các hình thức thuế.
- Tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và thương mại, giúp các nhà doanh nghiệp trong nước học tập
kinh nghiệm nước ngoài để tăng sức cạnh tranh của sp và Dn
- Chuyển giao
công nghệ và kỹ năng quản lý tạo cơ hội tăng năng suất lao động, thu nhập, giải
quyết khó khăn về thất nghiệp.
Tiêu cực:
- làm tăng khoảng cách giữa các
vùng, miền, giàu nghèo
- Phụ thuộc vào nguồn vốn FDI
và công nghệ nước ngoài
- Ảnh hưởng và làm thay đổi các
giá trị văn hóa
- Nếu sơ hở có thể dẫn đến tình
trạng du nhập công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt
nguồn lực.
* Đối với các nước chậm và đang phát triển
Thứ nhất: Đầu tư quốc tế giải quyết vấn đề thiếu vốn
để thực hiện công cuộc hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước. Do thiếu vốn,
nên việc tích luỹ nội bộ thấp, từ đó hạn chế quy mô đầu tư và đổi mới kỹ thuật mất cân đối trong xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán
thiếu hụt. Như vậy thu hút vốn
đầu tư giải quyết khó khăn về
tích luỹ vốn.
Thứ hai: Tiếp thu được công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và chuyển giao
công nghệ.
Khi đầu tư bằng
vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu (hay còn gọi là công nghệ
cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật - công
nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường (hay còn gọi là công nghệ mềm).
Thứ ba: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tranh thủ
vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang
phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang
phát triển thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo.
Thứ tư: Hình thành các ngành sản
xuất mới phù hợp, đưa nền kinh tế tham gia vào phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất
CÂU 17: TB MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
a. Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm
Trong giai đoạn đầu các doanh nghiệp đạt
được lợi thế độc quyền xuất khẩu nhưng đến giai đoạn tiếp theo khi sản phẩm
phát triển và bão hòa thì áp lực giảm chi phí và hạ giá thành khiến các công ty
sẽ nghĩ đến việc đầu tư sản xuất ở một quốc gia khác có chi phí sản xuất thấp
hơn để hạ giá thành và mở rộng thị trường.
- Tác giả: Raymond Vernon
- Địa điểm sx ra sp di chuyển từ nước này
sang nước khác phụ thuộc vào giai đoạn trong vòng đời sản phẩm.
- Những giai đoạn sp:
+ GDD1: sp mới
·
sản lượng nhỏ, sx và
tiêu thụ tại nước nhà.
·
Nỗ lực bán ở mức giá
cao.
·
Vào cuối GĐ 1 mặt hàng
này mới được xk.
+ GĐ 2: SP trưởng thành (chin muồi)
·
Sự tồn tại và lợi ích
của sp mới bắt đầu đc nhận thức một cách đầy đủ
·
Cầu sp mới tăng và đc
duy trì trong một khoảng thời gian tương đối dài.
·
Khi tỉ trọng trong XK
lớn và ngày càng tăng thì sẽ tổ chức sx ở nơi có mức cầu cao nhất
·
Cuối giai đoạn này, sp
bắt đầu được bán sang nước đang phát triển và quá trình sản xuất có thể được
tiến hành ở đó.
+ GĐ 3: sp chuẩn hóa
·
Giá giảm
·
Tích cực tìm kiếm cơ sở
sx với chi phí thấp ở các nước đang phát triển
·
Nhu cầu ở nước phát
minh được đáp ứng bởi nhập khẩu từ nước đang phát triển và nước công nghiệp
khác
·
Cuối giai đoạn này, sx
trong nước có thể chấm dứt hoàn toàn.
Hạn chế:
·
Một số loại sp không
phù hợp với đặc điểm của mô hình (sp có chu kỳ sống rất ngắn hay sp có chi phí
lưu chuyển quốc tế quá cao)
·
Thách thức bởi một thực
tế là nhiều công ty khởi đầu hđ KDQT trên thị trường thế giới, hay giới thiệu
sp ở cả trong và ngoài nước.
·
Không giải thích tại
sao các dạng thâm nhập thị trường khác lại không hoặc kém hiệu quả hơn.
b. Lý thuyết về quyền lực thị trường
Lý thuyết này cho rằng: FDI tồn tại những
hành vi đặc biệt của độc quyền nhóm trên phạm vi quốc tế như phản ứng của độc
quyền nhóm, hiệu quả kinh tế bên trong do quy mô sản xuất, và sự liên kết đầu
tư nước ngoài theo chiều dọc. Tất cả những hành vi này đều nhằm hạn chế cạnh
tranh, mở rộng thị trường và ngăn cản không cho đối thủ khác thâm nhập vào
ngành công nghiệp và thị trường của chúng.
Theo lý thuyết này, các công ty thực hiện
FDI vì một số lý do.
- Nguồn cung cấp nguyên liệu ngày càng khan
hiếm, các công ty nước sở tại không đủ khả năng thăm dò và khai thác
- Thông qua liên kết FDI dọc các công ty
độc quyền nhóm có thể thiết lập hàng rào ngăn cản không cho các công ty khác
tiếp cận tới nguồn nguyên liệu của chúng.
- FDI theo chiều dọc
còn có những lợi thế về chi phí thông qua việc cải tiến kỹ thuật bằng cách phối
hợp sản xuất và chuyển giao sản phẩm giữa các công đoạn khác nhau của quá trình
sản xuất.
c. Lý thuyết tính không hoàn hảo của thị
trường
Thị trường hoàn hảo là thị trường có khả
năng đáp ứng đầy đủ và thuận lợi nhu cầu của người tiêu dùng ở mức giá thấp
nhất có thể và những dịch vụ tối ưu nhất. Nhưng trên thực tế thị trường hoàn
hảo hầu như không tồn tại do nhiều yếu tố.
Những yếu tố ngăn cản quá trình hoạt động
hiệu quả của các ngành công nghiệp gọi là những yếu tố không hoàn hảo của
thị trường.
Lý thuyết về
tính không hoàn hảo của thị trường cho rằng một khi trên thị trường xuất hiện
các yếu tố không hoàn hảo làm cho hoạt động kình doanh kém hiệu quả đi thì các
công ty sẽ thực thi đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm kích thích hoạt động kinh
doanh và vượt qua các yếu tố không hoàn hảo đó. Có hai loại yếu tố không
hoàn hảo của thị trường chủ yếu, đó là các rào cản thương mại và kiến thức đặc biệt.
+ Các rào cản
thương mại: Một dạng không
hoàn hảo của thị trường trong kinh doanh quốc tế
là rào cản đối với thương mại quốc tế như việc đánh thuế nhập khẩu hay hạn
ngạch.
+ Kiến thức đặc
biệt: Những kiến thức này tạo nên khả năng cạnh
tranh khác thường của một công ty so với các công
ty khác. VD: chuyên môn kỹ thuật của các kỹ sư hay là khả năng tiếp thị đặc biệt của nhà quản lý.... Nhưng khi những kiến thức đặc
biệt của một công ty nằm trong bản thân con người
thì giải pháp duy nhất để sử dụng các cơ hội thị trường tại nước ngoài là thực
hiện FDI.
d. Lý thuyết triết chung
Lý thuyết này cho rằng các công ty sẽ thực
hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài khi hội tụ đủ ba lợi thế, đó là:
+ Lợi thế về địa điểm:
Ưu thế có được do việc tiến hành một hoạt động kinh doanh tại một địa điểm nhất
định với những đặc thù riêng (tài nguyên thiên nhiên, lao động hay một lợi thế
nào đó)
+ Lợi thế về sở hữu: Ưu thế cho một công ty
có cơ hội tham gia sở hữu một số tài sản đặc biệt nhất định như nhãn hiệu sản
phẩm, bằng sáng chế,….
+ Lợi thế nội hóa: Ưu thế có được do việc
nội hóa hoạt động sản xuất thay vì chuyển nó đến một thị trường khác kém hiệu
quả hơn.
·
XK: gặp rào cản thương
mại, không có lợi thế địa điểm
·
Cấp giấy phép: rủi ro
bị sao chép CN, hạn chế khả năng kiểm soát clg và chiến lược KD
CÂU 18: GIẢI THÍCH SỰ CAN THIỆP CỦA
CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI FDI? CÁC CÔNG CỤ CHỦ YẾU ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ CAN THIỆP VÀO FDI?
a. Nguyên nhân can thiệp
của các quốc gia nhận đầu tư
FDI là một bộ
phận kinh tế đối ngoại, nó chiếm một vai trò ngày càng
quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, bất
kỳ một quốc gia nào cũng phải can thiệp vào dòng vận động
của FDI. Hai nguyên nhân giải thích tại sao chính phủ các quốc gia
lại can thiệp đối với FDI, đó là cán cân thanh toán và huy động các nguồn lực cùng những lợi ích từ bên ngoài.
Cán cân thanh
toán quốc tế chịu sự chi phối bởi xuất nhập khẩu và FDI của bản thân nước đó với thế giới bên ngoài. Rất nhiều chính phủ coi việc can thiệp đối
với FDI như là một phương thức hữu hiệu nhằm điều chỉnh và kiểm soát
cán cân thanh toán.
Thứ nhất, khi dòng vốn FDI chảy vào được ghi như
những mức tăng thêm của cán cân
thanh toán nên các quốc gia đã
có thể tạo đà gia tăng cán cân thanh toán từ lương FDI chuyển vào đầu tiên.
Thứ hai, một số dự án FDI sản xuất thay thế hàng
nhập khẩu, nên vô hình dung có thể giúp cho việc giảm nhập khẩu và như vậy tăng
cán cân thanh toán.
Thứ ba, khả năng xuất khẩu sản phẩm của các dự án sản xuất mới cũng gây ảnh hưởng tích cực
đối với cán cân thanh toán.
Bên cạnh đó,
chính phủ huy động các nguồn lực cũng như những lợi ích như công nghệ, kỹ năng
quản lý và lao động. Đầu tư vào công nghệ nhằm mục đích tăng năng lực sản xuất
hay tăng khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Vì lý do đó, các quốc gia nhận
đầu tư tìm mọi biện pháp khuyến khích nhập khẩu công nghệ, sau đó cố gắng phát
triển những kiến thức công nghệ của riêng mình.
b. Nguyên nhân can thiệp
của các quốc gia đi
đầu tư
Đối với một số
quốc gia, việc di chuyển tự do FDI mang lại những tác dộng riêng đối với nền
kinh tế quốc dân. Thông thường, những nguyên nhân chính dẫn tới việc hạn chế
dòng FDI chảy ra ngoài là:
- Việc đầu tư
cho quốc gia khác sẽ dẫn tới chảy máu các nguồn lực của quốc gia đi đầu tư. Bởi vậy các nguồn lực được tập trung sử dụng cho phát triển và tăng
trưởng kinh tế tại chính quốc sẽ ngày càng ít đi.
- Việc chảy ra
của dòng vốn FDI có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới cán cân thanh toán của quốc gia đi đầu vì lấy mất thị trường của xuất khẩu.
- Việc làm này
do FDI tạo ra ở các nước sở tại có thể thay thế việc làm tại chính quốc. Đây là một vấn đề khá nhạy cảm đối với quốc gia đi đầu tư. Việc chuyển cơ
sở sản xuất sang một quốc gia có mức lương rẻ hơn sẽ gây ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tình hình làm việc tại một số khu vực trong
nước.
Bên cạnh đó,
Chính phủ can thiệp cũng đê khuyến khích những ngành công nghiệp bước vào thời
kỳ hoàng hôn và tăng khả năng cạnh tranh lâu dài của quốc gia.
c. Các công cụ và chính sách của chính phủ
* Đối với nước nhận đầu tư
- Các biện pháp hạn chế FDI:
+ Sở hữu: Cấm, hoặc chỉ thực hiện ở một số ngành nhất định, không sở hữu
quá 50% cổ phẩn
+ Yêu cầu về nội dung hoạt
động: Tỷ lệ nội địa hóa, tỷ lệ xuất khẩu, bắt buộc chuyển giao công nghệ
-
Các biện pháp khuyến
khích FDI
+ Ưu đãi
tài chính: Giảm thuế suất hay miễn thuế thu nhập trong một thời gian
+ Củng cố
cơ sở hạ tầng
* Đối với nước đi đầu tư
- Các biện pháp hạn chế FDI
+ Áp dụng mức
thuế suất đánh vào thu nhập tại nước ngoài của các công ty cao hơn mức thuế suất
đánh vào thu nhập trong nước
+ Xử phạt
(cấm) các công ty đầu tư vào một số quốc gia cụ thể
- Các biện pháp khuyến
khích FDI
+ Bảo hiểm
rủi ro
+ Cho vay vốn
hoặc bảo lãnh
+ Miễn thuế
cho công ty quốc tế đã chịu thuế lợi nhuận thu đươcj tại nước ngoài hay đưa ra
những ưu đãi thuế đặc biệt.
+ Gây áp lực
chính trị với các quốc gia khác nhằm buộc những quốc gia ấy nới lỏng những hạn
chế về đầu tư.
CÂU 19: KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG CỦA
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH?
a. Khái niệm
Thị trường tài chính là nơi gặp gỡ giữa
cung và cầu về vốn. Chức năng cơ bản của thị trường tài chính là chuyển vốn từ
nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn, từ những lĩnh vực kinh doanh kém hiệu quả
sang những lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Chủ thể có nhu cầu cho vay vốn và chủ thể
cho vay vốn có thể là các cá nhân, tổ chức và chính phủ được phân làm 2 loại
là: người bán quyền sử dụng nguồn TC, người mua quyền sử dụng nguồn TC. Các
nguồn vốn được vận động qua hai kênh đó là kênh trực tiếp (không qua trung
gian) và kênh gián tiếp (có trung gian).
Đối tượng mua bán : Quyền sử dụng vốn ngắn
hạn hoặc dài hạn
Công cụ chủ yếu: cổ phiếu, trái phiếu, tín
phiếu kho bạc , kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi, HĐ kỳ hạn, HĐ hoán đổi,
HĐ quyền chọn.
b. Chức năng
-
Định giá cho các tài
sản tài chính
-
Dẫn nguồn TC từ những
chủ thể có khả năng cung ứng nguồn TC đến những chủ thể cần nguồn TC
·
Đóng vai trò là kênh
dẫn vốn,Thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn,Giúp cho việc sử dụng vốn
có hiệu quả hơn, Tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các chính sách mở cửa,
cải cách chính sách kinh tế của CP.
-
Tạo tính thanh khoản
cho các tài sản tài chính
-
Cung cấp thong tin kinh
tế và đánh giá giá trị của DN
CÂU 20: KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ
TRƯỜNG VỐN QUỐC TẾ?
a. Khái niệm
Thị trường vốn quốc tế là một mạng lưới bao
gồm các cá nhân, các công ty, các thể chế tài chính và các chính phủ tiến hành
đầu tư hay vay tiền vượt qua các biên giới quốc gia.
Là nơi thực hiện chuyển giao hay mua bán
vốn với thời hạn trên một năm với những chủ thể cư trú và không cư trú.
Thị trường vốn quốc tế bao gồm những sàn
giao dịch chính thức và mạng lưới giao dịch điện tử với mục đích đầu tư phát
triển dài hạn
b. Vai trò của thị trường vốn quốc tế
- Gia tăng nguồn cung ứng tiền tệ cho những
người đi vay: Thị trường vốn quốc tế là chiếc cầu nối giữa những người đi vay
và những người cho vay trên thị trường vốn quốc gia khác nhau. Nếu một công ty
không thể huy động được vốn từ những người đầu tư trong nước thì vẫn có thể huy
động vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thị trường vốn quốc tế. Điều
này đặc biệt quan trọng đối với các nhà đầu tư ở những quốc gia, nơi mà thị
trường tài chính còn rất nhỏ bé hoặc đang trong giai đoạn hình thành.
- Giảm chi phí đối với những người đi vay.
Khi mức cung tiền được mở rộng thì chi phí vay mược sẽ giảm đi. Nếu mức cung
tiền tăng lên thì giá vốn (lãi suất) sẽ giảm xuống. Khi đó những dự án đầu tư
được đánh giá là không khả thi vì mức sinh lời thấp lại thành những dự án có
thể thực hiện được vì chi phí sử dụng vốn giảm đi.
- Giảm rủi ro đối với người cho vay: thị
trường tài chính quốc tế gia tăng các cơ hội cho vay và từ đó giảm rủi ro đối
với người cho vay thể hiện:
Thứ nhất các nhà đầu tư có nhiều cơ hội lực
chọn hơn và như vậy sẽ giảm bớt rủi ro đầu tư nhờ phân tán nguồn vốn của mình.
Thứ hai, đầu tư vào các chứng khoán quốc tế
giúp giảm bớt rủi ro đối với người đầu tư vì giá cả của các chứng khoán đó biến
động một cách độc lập với nhau.
CÂU 21: CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH NÊN THỊ
TRƯỜNG VỐN QUỐC TẾ? KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG THAM GIA THỊ TRƯỜNG VỐN QUỐC TẾ CỦA VN
NÓI CHUNG VÀ CỦA DOANH NGHIỆP VN NÓI RIÊNG?
a. Thị trường trái phiếu quốc tế
Thị trường trái phiếu quốc tế là nơi thực
hiện các giao dịch mua – bán trái phiếu vượt qua các biên giới quốc gia.
Những chủ thể thực hiện việc phát hành và
bán trái phiếu là các công ty, chính phủ và các tổ chức quốc tế khác WB, IMF,
ngân hàng châu âu và các DN lớn.
Những người chủ thể đầu tư chủ yếu là các
ngân hàng các quy mô lớn và vừa, các quỹ hưu trí và quỹ tương hỗ, công ty bảo
hiểm, chính phủ cũng tham gia mua trái phiếu quốc tế khi có nguồn dự trữ tài
chính dư thừa.
Phân loại: cách phân loại cơ bản nhất là
căn cứ vào đồng tiền ghi trên trái phiếu
-
Thị phần nước ngoài:
-
Thị phần châu âu:
·
Thị trường trái phiếu
nước ngoài: là thị trường mua bán trái phiếu do chủ thể không cư trú (chính
phủ, công ty nước ngoài )phát hành tại một nước ghi bằng đồng tiền nước đó để
thu hút vốn từ các nhà đầu tư nội địa
- Ví dụ: Công ty BP (Anh) phát hành trái
phiếu bằng đồng yên ở sở giao dịch chứng khoán TOKYO
- Thành phần: + Thị trường chào bán công
khai (Trái phiếu được đăng ký và giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán)
+ Thị
trường chào bán không công khai (không cần phải đăng ký với sở giao dịch chứng
khoán, có thể bán trực tiếp cho nhà đầu tư)
·
Thị trường trái phiếu
châu âu: là thị trường mua bán trái phiếu do chủ thể không cư trú (chính phủ,
công ty nước ngoài )phát hành nằm ngoài nước phát hành được ghi trên trái phiếu
đó
- Ví dụ: Một công ty Pháp phát hành trái
phiếu = đồng bảng Anh ở Thụy Sỹ.
- Đặc điểm: + Là thị trường trái phiếu quốc
tế lớn nhất và phổ biến nhất, chủ yếu được ghi bằng USD, bảng Anh, yên Nhật.
+ chủ thể phát hành phải có
hệ số tín nhiệm cao
+ thời hạn dài nên là kênh
rất quan trọng cung cấp vốn dài hạn cho các chủ thể phát hành.
·
Quy định phát hành trái
phiếu quốc tế của VN.
- Chủ thể: Chính Phủ (Bộ tài chính) NH
thương mại quốc doanh, DN nhà Nước.
- Điều kiện phát hành (Đối với các Dn nhà
nước, NH thương mại quốc doanh)
+ Đã được cấp giấy chứng nhận ĐK kinh doanh
theo các quy định của pháp luật
+ HĐ sx kd có lãi liên tiếp trong 3 năm
trước khi phát hành trái phiếu, tình hình tài chính lành mạnh và có triển vọng
phát triển, ko vi phạm pháp luật và kỷ luật tài chính, có chứng nhận của CT
kiểm toán độc lập.
+ Dự án đầu tư có hiệu quả được cấp có thẩm
quyền duyệt
+ Phương án phát hành trái phiếu được chính
phủ cho phép
b, Thị trường cổ phiếu quốc tế
Thị trường cổ phiếu quốc tế bao gồm tất cả
các cổ phiểu được mua và bán ngoài phạm vi quốc gia phát hành.
Chủ thể: Người bán cổ phiếu: Các công ty và
chính phủ thường xuyên bán cổ phiếu trên thị trường cổ phiếu quốc tế. Những
người mua là các công ty, các ngân hàng, các quỹ tương hộ, quỹ hưu trí và các
cá nhân.
Ưu thể khi tham gia thị trường cổ phiếu
quốc tế
+ tăng khả năng gọi vốn đầu tư ở các công
ty khác nhau nên tận dụng đc lợi thế về cổ đông, quy mô, đồng thời hạn chế ruỉ
ro
+ Đa dạng hóa quyền sở hữu nâng cao vị thế
và uy tín cho các công ty
CÂU 22: KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ
TRƯỜNG NGOẠI HỐI?
Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các
hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phươn tiện thanh toán có giá trị như
ngoại tệ.
Ngoại tệ: tiền của nước khác lưu thông
trong một nước
Các phương tiện thanh toán quốc tế được ghi
bằng ngoại tệ: hối phiếu, lệnh phiếu, séc, thư chuyển tiền, điện chuyển tiền
,thẻ tín dụng, thư tín dụng ngân hàng.
Về thực chất thì thị trường ngoại hối không
phải là nguồn cung cấp vốn cho các công ty và các chủ thể khác mà vai trò của
nó là phục vụ cho các hoạt động tài chính của các công ty nói riêng và các giao
dịch quốc tế nói chung.
5.3.2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối
- hoạt động liên tục suốt ngày đêm
- mang tính chất quốc tế
- Tỷ giá hối đoái được xác định trên cơ sở
cung cầu ngoại tệ
- Đồng USD được coi là đồng tiền chu chuyển
+ Mỹ có quy mô thương mại lớn nhất
+ Đồng USD ổn định nhất so với các đồng
tiền khác
CÂU 23: LÝ DO CÁC NHÀ ĐẦU TƯ THAM GIA
VÀO THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
Các nhà đầu tư tham gia vào thị trường
ngoại hối vì một số lý do sau:
- Chuyển đổi tiền tệ: Các công ty
thường có nhu cầu chuyển đổi đồng tiền này sang đồng tiền khác để phục vụ cho
các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư.
- Bảo hiểm rủi ro hối đoái: Việc áp dụng những giao dịch nhằm ngăn ngừa
thất thoát vốn do biến động tỷ giá bất lợi gây ra gọi là biện pháp bảo hiểm rủi
ro hối đoái. Các công ty quốc tế thường sử dụng biện pháp nay nhằm giảm bớt rủi
ro phát sinh khi thực hiện chuyển giao nguồn vốn trên phạm vi quốc tế hoặc khi
thực hiện thanh toán hoặc nhân thanh toán có kỳ hạn trong các hợp đồng xuất
nhập khẩu.
- Buôn bán ngoại tệ: Là việc thực hiện các giao dịch mua và bán
đồng thời một đồng tiền nào đó trên các thị trường khác nhau nhằm mục đích thu
lợi nhuận. Cơ sở để thực hiện nghiệp vụ này là có sự chênh lệch về tỷ giá giữa
các thị trường ngoại hối và mức chênh lệch đó đủ lớn để bù đắp chi phí giao
dịch và thu được lợi nhuận.
- Đầu cơ tiền: Đầu cơ tiền tệ là việc mua hoặc bán các đồng
tiền dự tính rằng giá trị của chúng sẽ thay đổi và đem lại lợi nhuận. sự biến
động về giá trị của một đồng tiền có thể xảy ra tức thời hoặc trong một khoản
thời gian dài. Người kinh doanh ngoại hối có thể đặt cược rằng giá của một đồng
tiền nào đó sẽ tăng lên hay giảm xuống trong tương lai từ đó sẽ có quyết định
mua hay bán đồng tiền đó.
CÂU 24: CÁC HÌNH THỨC CỦA
THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI? VD MINH HỌA
CÂU 25: PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH CHIẾN LƯỢC KDQT?
Quá trình hình thành chiến
lược được chia làm 3 giai đoạn có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Giai đoạn 1: Xác định nhiệm vụ chiến lược
và mục tiêu của công ty
nhiệm vụ chiến lược:
- xác định mục đích chính của các hđ KDQT
- ND cơ bản của bản báo cáo nhiệm vụ chiến
lược
+ Khách hàng (ai là người tiêu thụ của DN)
+ SP/ dv (DV/sp chính của DN là gì)
+ thị trường (DN cạnh tranh tại đâu)
+ Triết lý kinh doanh
+ Mối quan tâm của Dn đối với các lợi ích
công cộng (BV MT, lợi ích XH)
+ Mối quan tâm với nhân viên (Thái độ của
DN với nhân viên ntn)
- VD: ....
GDD2: xđ năng lực cốt lõi và hoạt động tạo ra giá trị
Năng lực cốt lõi là sự thành thạo công nghệ chuyên môn
hay các kỹ năng của DN trong các lĩnh vực chính , trực tiếp đem lại giá trị gia
tawngg cao hơn đối thủ và được kh đánh giá cao
CÂU 26: TB NỘI DUNG, NHỮNG THUẬN LỢI,
KHÓ KHĂN CỦA CÁC LOẠI CHIẾN LƯỢC KDQT?
a. Chiến lược quốc tế (International
strategy)
cố gắng tạo ra giá trị bằng cách đưa các kỹ
năng giá trị và các sản phẩm đến thị trường nước ngoài. Hầu hết các công ty
quốc tế tạo ra giá trị bằng cách đưa các sản phẩm khác biệt đã phát triển tại
thị trường nội địa ra thị trường quốc tế. Họ hướng về chức năng tập trung phát
triển sản phẩm tại nội địa (thí dụ: R&D,thiết lập chức năng sản xuất và
marketing cho mỗi một thị trường chính kinh doanh. Cuối cùng, các cơ quan đầu
não sẽ duy trì sự quản lý khá chặt chẽ đối với chiến lược marketing và chiến
lược sản phẩm.
Các công ty theo đuổi chiến lược quốc tế
như McDonald’s, IBM, Kellogg, P&G
Một chiến lược quốc tế sẽ có ý nghĩa nếu
công ty có một năng lực giá trị cốt lõi mà các nhà cạnh tranh bản địa thiếu, và
công ty đối mặt với một sức ép yếu của các yêu cầu địa phương và sự cắt giảm
chi phí. Trong những trường hợp này thì chiến lược quốc tế là có lợi nhất.
Hạn chế: khi mà sức ép về các yêu cầu địa
phương tăng, các công ty theo đuổi chính sách này sẽ mất đi lợi thế đối với
những công ty mà việc tổ chức nhấn mạnh vào việc cung cấp sản phẩm theo yêu cầu
của khách hàng và chiến lược marketing cho các điều kiện nội địa. Không khai
thác được lợi ích của hiệu ứng kinh nghiệm và tính kinh tế của địa điểm.
b. Chiến lược đa nội địa (Multidomestic
strategy)
- chuyên biệt hóa sp và chiến lược mar phù
hợp với từng thị trường
- thiết lập một tập hợp hoàn chỉnh của các
hoạt động tạo ra giá trị, bao gồm sản xuất, marketing và R& D tại mỗi thị
trường mà họ kinh doanh. Kết quả là, họ thường bị thất bại bởi việc tạo ra lợi
ích kinh tế của đường cong kinh nghiệm và tính lợi ích của địa điểm. Theo đó,
một vài công ty đa nội địa có những cấu trúc chi phí khá cao.
ý nghĩa khi mà có nhiều sức ép về sự đáp
ứng nội địa và ít sức ép về việc cắt giảm chi phí. Ưu: đáp ứng đc các yêu cầu
của địa phương.
Hạn chế: Cấu trúc chi phí cao không khai thác
được lợi ích của hiệu ứng kinh nghiệm và tính kinh tế của địa điểm. Thất bại
trong việc đưa những khả năng đặc biệt ra thị trường quốc tế
c. Chiến lược toàn cầu (global strategy)
Các công ty theo đuổi chiến lược toàn cầu
sẽ theo đuổi chiến lược hạ thấp chi phí. Sản xuất, marketing và các hoạt động
R&D của công ty theo đuổi chiến lược toàn cầu sẽ tập trung vào một vài điều
kiện thuận lợi.
Các công ty toàn cầu sẽ không hướng đến
việc đáp ứng các yêu cầu của từng bộ phận khách hàng trong việc cung cấp sản
phẩm và chiến lược marketing bởi vì chi phí cho việc cá biệt hóa sản phẩm cao.
Thay vì vậy, các công ty toàn cầu hướng đến việc đưa ra thị trường các sản phẩm
tiêu chuẩn hóa trên toàn cầu. vì vậy họ có thể thu hoạch được tối đa lợi ích từ
quy mô. Họ cũng đồng thời hướng đến việc sử dụng các lợi thế về chi phí để hỗ
trợ cho việc công kích giá trên thị trường thế giới.
Chiến lược toàn cầu sẽ đạt ý nghĩa cao nhất
tại nơi mà áp lực cao về sự cắt giảm chi phí và nơi mà các yêu cầu địa phương
là thấp nhất. Thêm vào đó, những điều kiện này lại chiếm ưu thế trong những
ngành công nghiệp sản xuất hàng công nghiệp. Thí dụ, các tiêu chuẩn toàn cầu
đặt ra trong ngành công nghiệp chất bán dẫn, theo đó, các công ty như Intel,
Texas Instrument và Motorola đều phải theo đuổi chiến lược toàn cầu. Tuy nhiên,
chiến lược này không thích hợp với những nơi mà các yêu cầu địa phương cao.
d. Chiến lược đa quốc gia (transnational
strategy)
Chiến lược đa quốc gia sẽ có ý nghĩa nhất
khi các công ty phải đối mặt với áp lực lớn về việc cắt giảm chi phí và các yêu
cầu địa phương cao. Các công ty theo đuổi chính sách đa quốc gia sẽ cố gắng để
đạt được cùng một lúc việc cắt giảm chi phí và các lợi thế khác biệt. Lợi thế
này lại không dễ dàng để theo đuổi. Áp lực về thỏa mãn các yêu cầu địa phương
và cắt giảm chi phí luôn tạo ra mâu thuẫn cho phía công ty - như vậy làm sao
công ty có thể theo đuổi hiệu quả chiến lược đa quốc gia.
Chúng ta có thể tóm lược các khía cạnh khác
nhau của các chiến lược như bảng 6.1.
Bảng
6.1. Thuận lợi và khó khăn của các chiến lược
Chiến lược
|
Thuận lợi
|
Bất lợi
|
Toàn cầu
|
- Khai thác lợi ích kinh tế của đường
cong kinh nghiệm.
- Khai thác tính kinh tế của địa điểm.
|
- Hạn chế về khả năng đáp ứng yêu cầu địa
phương.
|
Quốc tế
|
Đưa những khả năng đặc biệt ra thị trường
nước ngoài.
|
- Hạn chế về khả năng đáp ứng yêu cầu địa
phương.
- Không khai thác được tính kinh tế của
địa điểm.
- Thất bại trong việc khai thác lợi ích kinh tế của đường cong kinh
nghiệm.
|
Đa nội địa
|
Cung cấp các sản phẩm và chiến lược
marketing phù hợp với các yêu cầu địa phương
|
- Không có khả năng khai thác tính kinh
tế của địa điểm.
- Thất bại trong việc khai thác lợi ích
kinh tế của đường cong kinh nghiệm.
- Thất bại trong việc đưa những khả năng đặc biệt ra thị trường quốc
tế.
|
Đa quốc gia
|
- Khai thác được lợi ích kinh tế của
đường cong kinh nghiệm.
- Khai thác tính KT của địa điểm.
- Cung cấp các sp và CL marketing phù hợp
với các yêu cầu địa phương.
- Thu hoạch được lợi ích từ quá trình học
hỏi toàn cầu (global learning)
|
- Khó khăn trong việc thực hiện do các
vấn đề về tổ chức.
|
|
|
|
|
CÂU 27: PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ CHỦ YẾU
ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỰA CHỌN CHIẾN LƯỢC KDQT?
a. Sức ép giảm chi phí
đòi hỏi công ty giảm bớt chi phí của hoạt động
sáng tạo giá trị bằng việc tập trung vào việc sản xuất tiêu chuẩn hóa ở một địa
điểm tốt nhất trên thế giới nhằm đạt được tính kinh tế của địa điểm và tính
kinh tế của đường cong kinh nghiệm.
Sức ép giảm chi phí có thể rất lớn trong những
ngành sản xuất mà giá cả là vũ khí cạnh tranh chính. Đó thường là các sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu chung và khi sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng ở các
nước khác nhau có xu hướng tương tự nhau. Thí dụ: đường, dầu, thép, máy tính,
lốp xe ô tô…đó là những hàng hóa thông thường và có nhu cầu lớn.
Sức ép giảm chi phí cũng có thể rất lớn trong
các ngành mà các đối thủ cạnh tranh chính đều ở mức chi phí thấp, hoặc công
suất vượt quá khả năng tiêu dùng, hoặc những nơi mà người tiêu dùng có sức
mạnh. Để giải quyết vấn đề này, các công ty thường thực hiện việc di dời sản
xuất đến nơi có chi phí thấp và tung ra các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa toàn
cầu để đạt được lợi ích kinh tế của đường cong kinh nghiệm.
b. Sức ép từ các địa phương
* Sự khác biệt về sở thích và thị hiếu tiêu
dùng
Sức ép lớn từ các địa phương xuất hiện
khi sở thích và thị hiếu tiêu dùng khác nhau đáng kể giữa các quốc gia - có thể
do các lý do lịch sử hoặc văn hóa. Trong những trường hợp như vậy, sản phẩm và/
hoặc các thông điệp quảng cáo phải được làm theo ý khách hàng để lôi cuốn sở
thích và thị hiếu của người tiêu dùng địa phương. Vấn đề này thường thúc đẩy
các trụ sở chính ủy quyền cho các công ty con thực hiện chức năng sản xuất và
tiếp thị ở các quốc gia khác.
* Sự khác biệt về cơ sở hạ tầng và tập quán
truyền thống
việc thích nghi sản phẩm đối với những tập
quán và cơ sở hạ tầng của các quốc gia khác nhau có thể đòi hỏi phải giao các
chức năng sản xuất cho các công ty con ở nước ngoài.
Thí dụ: hệ thống điện tử tiêu dùng ở Bắc Mỹ
dựa trên cơ sở 110 vôn; trong khi đó một số nước Châu Âu, hệ thống 240 vôn là
tiêu chuẩn. Do vậy, các thiết bị điện nội địa phải được thích nghi với những
khác biệt của cơ sở hạ tầng.
Tập quán truyền thống cũng thường khác nhau
giữa các quốc gia. Thí dụ: mọi người lái xe ở phía bên trái đường của Anh, tạo
ra yêu cầu tay lái xe bên phải, nhưng ở nước láng giềng Pháp, mọi người lái xe
phía bên phải, tạo ra yêu cầu tay lái xe bên trái. Ô tô phải được thích nghi để
đáp ứng sự khác nhau trong tập quán truyền thống này.
* Sự khác biệt về kênh phân phối
Chiến lược tiếp thị của một công ty
phải phù hợp với những khác biệt trong kênh phân phối giữa các quốc gia. Điều
này yêu cầu trụ sở chính phải trao chức năng tiếp thị cho các công ty con hoạt
động ở các quốc gia khác nhau.
Thí dụ: trong mặt hàng bột giặt, năm tổ hợp bán
lẻ kiểm soát 65% thị trường Đức nhưng không một tổ hợp nào kiểm soát quá 2% thị
trường nước láng giềng Italia. Do vậy, các tổ hợp bán lẻ có sức tiêu thụ lớn ở
Đức, nhưng tương đối nhỏ ở Italia. Việc giải quyết những khác biệt này yêu cầu
hãng bột giặt sử dụng nhiều phương pháp tiếp thị khác nhau.
* Những yêu cầu của chính phủ nước sở tại
Các yêu cầu về kinh tế và chính trị đặt ra bởi
chính phủ nước sở tại có thể trở thành sức ép từ các địa phương. Đồng thời sự
đe dọa của chế độ bảo hộ, tinh thần dân tộc và luật lệ địa phương - tất cả đòi
hỏi các hoạt động sản xuất quốc tế phải phù hợp với địa phương.
Tuy nhiên, sức ép từ phía các địa phương hàm ý
rằng công ty không thể đạt được toàn bộ lợi ích từ đường cong kinh nghiệm và
tính kinh tế của địa điểm. Thí dụ, nó không thể phục vụ thị trường toàn cầu từ
một địa điểm chi phí thấp, sản xuất một sản phẩm tiêu chuẩn hóa toàn cầu và
tiếp thị nó trên toàn thế giới để đạt tính kinh tế về chi phí của đường cong
kinh nghiệm.
Thêm vào đó, sức ép từ phía địa phương hàm ý
rằng công ty không thể chuyển giao các khả năng vượt trội vá các sản phẩm đặc
biệt của nó từ nước này sang nước khác. Mc Donald’s cũng phải thích nghi hóa
sản phẩm của nó với sự khác biệt của các quốc gia về sở thích và thị hiếu như
cải tiến thực đơn của nó cho phù hợp với từng địa phương. (Thí dụ về Mc
Donald’s tại Trung Quốc )
d. Các quyết định về marketing (marketing
consideration)
một số công ty thực hiện chiến lược toàn
cầu sử dụng các thông điệp quảng cáo và chủ đề giống nhau để bán các sản phẩm
trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nhiều công ty khác lại nhận thấy rằng các sản
phẩm của họ đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ học hoặc là thay đổi trong quảng cáo
cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng ở các thị trường mục tiêu. Các sản
phẩm này vẫn cần có những chiến lược marketing khác nhau để phản ánh nền văn
hóa, chính trị và luật pháp hoặc kinh tế riêng biệt của các thị trường quốc gia
khác nhau.
CÂU 28: TB CÁC CHIẾN LƯỢC CHỦ YẾU CẤP
CÔNG TY (DN) VÀ CẤP CƠ SỞ?
a. Chiến lược cấp công ty
Đối với các công ty có
nhiều hơn một ngành, một lĩnh vực, hoặc cơ sở kinh doanh thì bước đầu tiên phải
hình thành chiến lược cấp công ty. Một mặt, điều đó xác định các thị trường cấp
quốc gia và các ngành mà công ty sẽ hoạt động ở đó. Mặt khác, điều đó cũng liên
quan đến việc xác định các mục tiêu tổng quát cho các cơ sở kinh doanh khác
nhau của công ty và xác định các con đường, các giải pháp lớn của mỗi cơ sở
trong việc thực hiện những mục tiêu đã xác định. Có bốn con đường quan trọng để
hình thành chiến lược cấp công ty: tăng trưởng, ổn định, cắt giảm và kết hợp.
* Chiến lược tăng trưởng
Đây là chiến lược được phác
thảo để tăng quy mô hoặc phạm vi hoạt động (hoặc loại hoạt động) của công ty.
Quy mô là bề rộng, độ lớn của các hoạt động của công ty; phạm vi là các loại
hoạt động mà công ty thực hiện. Các chỉ tiêu thường sử dụng để đo sự tăng
trưởng bao gồm: khu vực địa lý, số cơ sở kinh doanh, thị phần, doanh thu bán
hàng và số công nhân, số ngành hoặc lĩnh vực kinh doanh…
Tăng trưởng nội bộ - tự
tăng trưởng là chiến lược công ty dựa trên sự tăng trưởng được tạo ra từ bản
thân nó. Các phương pháp tăng trưởng khác bao gồm hợp nhất và chiếm đoạt, liên
doanh và liên minh chiến lược. Các công ty thường liên kết với các đối thủ cạnh
tranh nhằm làm giảm bớt đi mức độ cạnh tranh, đã dạng hóa các loại sản phẩm
hoặc mở rộng địa bàn hoạt động. Động cơ chủ yếu để liên kết với các nhà cung
ứng là tăng cường kiểm tra chất lượng, chi phí và thời gian cung ứng.
* Chiến lược cắt giảm
Đó là chiến lược được hoạch
định nhằm giảm bớt quy mô và phạm vi các hoạt động kinh doanh trong công ty.
Các công ty thường giảm bớt quy mô hoạt động khi các điều kiện kinh tế xấu đi
hoặc sự cạnh tranh gia tăng. Các công ty có thể thực hiện chiến lược này thông
qua việc đóng cửa các nhà máy có công suất dư thừa và sa thải công nhân. Công
ty giảm phạm vi hoạt động của họ thông qua việc bán các cơ sở kinh doanh thua
lỗ hoặc những cơ sở kinh doanh không còn liên quan trực tiếp đến các mục tiêu
tổng thể. Các đối thủ cạnh tranh yếu hơn thường lựa chọn chiến lược cắt giảm
khi môi trường kinh doanh quốc gia bắt đầu cạnh tranh mạnh mẽ hơn.
* Chiến lược ổn định
Các công ty thường áp dụng
chiến lược này để cố gắng không phải thực hiện chiến lược tăng trưởng hay chiến
lược cắt giảm. Nhiều công ty đã đáp ứng được các mục tiêu đặt ra và hài lòng
với những gì đã đạt được. Họ tin tưởng rằng những điểm mạnh của họ đã được khai
thác triệt để và những điểm yếu cuat họ cũng được bảo vệ cẩn thận. Các công ty
cũng nhận thấy môi trường kinh doanh mà họ đnag hoạt động không phải là thời cơ
thuận lợi hoặc đe dọa các công ty không quan tâm đến mở rộng hoạt động tiêu
thụ, tăng lợi nhuận, tăng thị phần hay mở rộng các cơ sở bán hàng. Ổn định là
một chiến lược không mấy phổ biến ở các công ty hiện nay. Nguyên nhân cơ bản
nhất là rất ít cổ đông hài lòng khi ban quản trị công ty coi mình đã đạt được
các mục tiêu và nắm giữ tất cả các cơ hội.
* Chiến lược kết hợp
Mục tiêu của chiến lược này
là phối hợp các chiến lược tăng trưởng, cắt giảm và ổn định ở tất cả các đơn vị
kinh doanh của công ty. Trên thực tế, chiến lược này được nhiều công ty lựa
chọn, bởi vì các công ty quốc tế hiếm khi theo đuổi các chiến lược giống nhau ở
mỗi cơ sở kinh doanh.
b. Chiến lược cấp cơ sở
* Chiến lược hướng vào chi phí thấp
Các công ty theo đuổi chiến
lược dẫn đầu về chi phí thấp cũng cố gắng giảm bớt các chi phí quản lý và chi
phí của các hoạt động chủ yếu, bao gồm marketing, quảng cáo và phân phối. Các
nhân tố nền tảng cho vị trí dẫn đầu chi phí thấp có thể giúp cho việc bảo vệ
công ty khỏi sự tấn công của các đói thủ cạnh tranh do chi phí ban đầu lớn.
Tương tự như vậy, việc đạt được vị trí dẫn đầu chi phí thấp lại phụ thuộc vào
quy mô sản xuất. Điều đó có nghĩa là yêu cầu công ty phải có thị phần lớn. Mặt
tiêu cực của chiến lược này là tính trung thành của khách hàng thấp, bởi vì nếu
tất cả những vấn đề còn lại là như nhau thì người tiêu dùng sẽ mua sản phẩm của
các nhà sản xuất nào có chi phí thấp.
Chiến lược hướng vào chi
phí thấp đặc biệt thích hợp với những sản phẩm được bán với khối lượng lớn và
nhằm vào các khách hàng nhạy cảm với giá. Chiến lược này thường rất phù hợp với
những công ty có sản phẩm đạt tiêu chuẩn hóa và chú trọng marketing.
* Chiến lược khác biệt hóa
Chiến lược khác biệt hóa là
chiến lược mà trong đó công ty thiết kế sản phẩm để người tiêu dùng nhận ra sản
phẩm là độc đáo, duy nhất trong toàn ngành. Nhờ người tiêu dùng nhận ra sản
phẩm của công ty là độc đáo, duy nhất trên thị trường nên công ty theo đuổi
chiến lược khác biệt hóa có thể định giá cao hơn và thu hút được lòng trung thành
của khách hàng lớn hơn công ty dẫn đầu chi phí thấp. Chiến lược khác biệt hóa
có xu hướng đẩy công ty vào vị trí thị phần thấp hơn, bởi vì chiến lược này có
thể dẫn đến độc quyền hoặc chỉ đáp ứng nhu cầu của một nhóm khách hàng nhất
định. Các công ty áp dụng loại chiến lược này phải tìm cách làm tăng thêm lòng
trung thành của người tiêu dùng để bù đắp vấn đề thị phần nhỏ hơn, chi phí sản
xuất và tiếp thị sản phẩm độc quyền cao hơn.
-
Nâng cao uy tín về chất
lượng là một cách làm cho sản phẩm trở nên khác biệt.
-
Ấn tượng nhãn hiệu đặc
trưng cũng làm cho sản phẩm trở nên khác biệt.
-
Một yếu tố khác biệt
nữa là thiết kế sản phẩm.
* Chiến lược tập trung (focus strategy)
Chiến lược tập trung là chiến lược mà trong
đó công ty tập trung vào phục vụ nhu cầu của một đoạn thị trường hẹp hoặc bằng
việc trở thành người dẫn đầu chi phí thấp, hoặc bằng việc làm khác biệt sản
phẩm hoặc bằng cả hai.
Chiến lược tập trung có nghĩa là kiểu dáng
sản phẩm và cách thức quảng cáo nhằm vào những người tiêu dùng không thỏa mãn
với sự lựa chọn hiện có hoặc những người mong muốn có những gì đó khác biệt
c. Chiến lược cấp chức năng (department
level strategies)
Chiến lược chức năng là chiến lược tập
trung vào các hoạt động cụ thể để biến đổi nguồn nguyên liệu thành sản phẩm.
Việc hình thành các chiến lược chức năng được bắt đầu từ việc phân tích các khả
năng hỗ trợ của công ty đến các hoạt động chủ yếu và hoạt động hỗ trợ để tạo ra
giá trị cho người tiêu dùng.
CÂU 29: THẾ NÀO LÀ QUẢN LÝ TẬP TRUNG
VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ? CÁC QUAN ĐIỂM CHÍNH ỦNG HỘ CHO 2 CƠ CHẾ QUẢN LÝ NÀY LÀ GÌ?
Quản lý tập trung (Centralized discision
making) là quyết định được ban hành tập trung tại cấp cao nhất trong hệ thống
quản lý và tại một điểm, thường là ở trụ sở chính.
Phân cấp quản lý (decentralized discision
making) là việc ra quyết định được thực hiện ở các cấp thấp hơn trong hệ thống
quản lý.
lưu ý hai vấn đề cơ bản sau đây
Một là: Hiếm khi các
công ty tập trung hoàn toàn hay phân cấp tất cả việc ra quyết định. Họ chỉ lựa
chọn cách thức có thể làm cho các quyết định của họ có hiệu lực cao nhất.
Hai là: Các công ty
quốc tế có thể ra quyết định tập trung ở một khu vực thị trường nhất định trong
khi phân cấp quyết định ở thị trường khác. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự
lựa chọn này, như nhu cầu thay đổi sản phẩm và khả năng của các nhà quản lý tại
mỗi địa điểm khác nhau.
a. Các lập luận ủng hộ cơ chế quản lý tập
trung
Có bốn lập luận chính ủng hộ cơ chế
quản lý tập trung:
Thứ nhất, quản ký tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phối hợp. Chẳng hạn mọt công ty có chi nhánh sản xuất bán thành phẩm tại Đài
Loan và một chi nhánh lắp ráp tại Mexico. Hai chi nhánh này có thể cần phối hợp
hoạt động với nhau để đảm bảo các quá trình sản xuất và lắp ráp diễn ra một
cách suôn sẻ. Điều này có thể đạt được nếu các quyết định sản xuất - lắp ráp
được đưa ra tại trụ sở chính của công ty.
Thứ hai, quản lý tập
trung có thể giúp đảm bảo các quyết định đưa ra thích hợp với các mục tiêu của
công ty. Khi các quyết định được phân cấp cho các cấp quản lý thấp hơn thì các
cấp đó có thể ra những quyết định không phù hợp với mục tiêu của cấp quản lý
cao nhất. Việc những quyết định quan trọng được tập trung ở cấp quản lý cao
nhất sẽ giảm thiểu khả năng xảy ra tình trạng này.
Thứ ba, việc tập
trung quyền lực và thẩm quyền cho một cá nhân hoặc một nhóm các nhà quản lý cấp
cao nhất cho phép những người này có được công cụ để thực hiện những thay đổi
chủ yếu cần thiết về cơ cấu tổ chức.
Thứ tư, quản lý tập
trung có thể tránh được sự trùng lặp hoạt động khi các bộ phận khác nhau trong
tổ chức tiến hành những công việc tương tự nhau. Ví dụ, nhiều công ty quốc tế
tập trung các chức năng nghiên cứu và phát triển chỉ ở một hoặc hai địa điểm để
đảm bảo rằng hoạt động này không bị trùng lặp. Tương tự, các họat động sản xuất
cũng có thể được tập trung ở một số địa điểm quan trọng vì lý do như trên.
b. Các lập luận ủng hộ phân cấp quản lý
Có năm lập luận tán đồng cho việc
phân cấp quản lý.
Thứ nhất, các nhà quản lý cấp cao có thể phải làm việc quá tải
khi được trao thẩm quyền đưa ra tất cả các quyết định, và điều đó có thể dẫn
đến những quyết định sai lầm. Sự phân cấp quản lý cho phép cấp quản lý cao nhất
có thời gian để tập trung vào các vấn đề cốt yếu và ủy quyền cho các cấp quản
lý thấp hơn xử lý những vấn đề thông thường.
Thứ hai, việc nghiên
cứu động cơ của con người cũng thiên về tán đồng cho việc phân cấp quản lý. Các
nhà khoa học hành vi từ lâu đã cho rằng con người sẽ làm việc tốt hơn nếu họ có
được mức độ tự do cá nhân và mức độ kiểm soát đối với công việc cao hơn.
Thứ ba, việc phân
cấp quản lý tạo ra mức độ linh hoạt cao hơn - cụ thể là sự phản ứng nhanh hơn
đối với những biến động của môi trường, bởi vì các quyết định không nhất thiết
lúc nào cũng phải được “đệ trình lên các cấp cao hơn”, trừ những trường hợp
ngoại lệ.
Thứ tư, sự phân cấp
quản lý có thể dẫn tới những quyết định tốt hơn vì chúng được đưa ra bởi những
cá nhân có thông tin tốt hơn so với nhà quản lý ở cấp cao hơn.
Thứ năm, phân cấp
quản lý có thể giúp tăng cường sự kiểm soát. Có thể sử dụng sự phân cấp quản lý
để thiết lập những bộ phận nhỏ có tính độc lập tương đối trong phạm vi một tổ
chức. Các nhà quản lý ở những đơn vị này phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về
hoạt động của mình. Nếu trách nhiệm của họ đối vớí các quyết định đưa ra càng
cao thì càng có ít lý do để họ có thể phủ nhận trách nhiệm của mình đối với
hoạt động yếu kém của các dơn vị đó.
CÂU 30: TB CÁC LOẠI HÌNH CƠ CẤU TỔ
CHỨC QUỐC TẾ?
Có rất nhiều cách khác nhau
để các công ty tự tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh quốc tế. Tuy
nhiên, có 4 loại cấu trúc tổ chức phổ biến nhất được các công ty quốc tế lựa
chọn và áp dụng.
a. Cấu trúc phân nhánh quốc tế (International
Division Structure)
Cấu trúc phân nhánh quốc tế là cấu trúc tổ
chức tách biệt các hoạt động kinh doanh quốc tế khỏi các hoạt động kinh doanh
nội địa bằng việc thành lập một bộ phận quốc tế riêng biệt có người quản lý
riêng (xem hình 6.3). Trong đó, bộ phận quốc tế lại được chia thành các đơn vị
tương ứng với các nước mà công ty đang hoạt động.
cấu trúc phân nhánh quốc tế cũng có thể gây ra
những vấn đề sau:
Một là, các nhà quản lý quốc tế thường phải phụ thuộc vào các
nhà quản lý trong nước về nguồn lực tài chính và bí quyết kĩ thuật có thể đem
lại cho công ty lợi thế cạnh tranh quốc tế.
Hai là, tổng giám đốc của bộ phận
quốc tế thường chịu trách nhiệm về mọi hoạt động ở tất cả các nước. Mặc dù,
chính sách này tạo điều kiện cho việc phối hợp các nước với nhau, nhưng nó lại
làm giảm quyền lực của các nhà quản lýở từng quốc gia..
b. Cấu trúc khu vực địa lý (Wordwide Area
Structure)
Cấu trúc khu vực địa lý là
cấu trúc trong đó tất cả các hoạt động toàn cầu của công ty được tổ chức theo
nước hay theo khu vực (xem hình 6.4)
Nếu công ty càng hoạt động
ở nhiều nước thì khả năng tổ chức theo khu vực của công ty cũng càng lớn thay
cho việc tổ chức theo nước. Thông thường, tổng giám đốc phụ trách mỗi nước hay
mỗi khu vực. mỗi bộ phận theo khu vực địa lý hoạt động như là một dơn vị độc
lập, với hầu hết các quyết định được phân chia cho người quản lý khu vực hoặc
quốc gia. Mỗi đơn vị có các phòng ban riêng như phòng cung ứng, sản xuất,
Marketing và bán hàng, nghiên cứu và phát triển, kế toán…Trụ sở chính của công
ty mẹ ra quyết định về chiến lược tổng thể của công ty và phối hợp các hoạt
động của các cơ sở khác nhau.
Cấu trúc theo khu vực là phù hợp nhất đối
với các công ty coi mỗi thị trường khu vực hay quốc gia là duy nhất. Cấu trúc
này đặc biệt có ích khi giữa các quốc gia hay các khu vực có sự khác nhau lớn
về văn hóa, chính trị hay kinh tế.
c. Cấu trúc nhóm sản phẩm toàn cầu
(Wordwide Product Division Structure)
Đây là cấu trúc tổ chức phân chia các hoạt
động của công ty trên toàn thế giới theo nhóm sản phẩm
Do cấu trúc này khắc phục
được một số hạn chế về phối hợp của cấu trúc phân nhánh quốc tế, nên cấu trúc
này thích hợp đối với công ty cung các sản phẩm và dịch vụ đa dạng. Do trọng
tâm cơ bản là sản phẩm, nên cả hai phía quản lý nội địa và quốc tế ở mỗi nhánh
sản phẩm phải phối hợp các hoạt động của họ lại với nhau để không gây xung đột.
d. Cấu trúc ma trận toàn cầu (Global Matrix
Structure) Cấu trúc ma trận
toàn cầu là cấu tổ chức phân chia chuỗi mệnh lệnh giữa các bộ phận sản phẩm và
bộ phận khu vực
CÂU 31: PHÂN TÍCH ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA HÌNH THỨC THÂM
NHẬP THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI BẰNG XK TRỰC TIẾP VÀ XK GIÁN TIẾP? CÁC HÌNH THỨC CHỦ
YẾU CỦA CHÚNG
a. Khái niệm
Xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng
hóa và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác. Xuất khẩu được coi là hình
thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít rủi ro và chi phí thấp. Dưới giác độ
kinh doanh, xuất khẩu là việc bán các hàng hóa và dịch vụ.. Trong kinh doanh,
hoạt động xuất khẩu diễn ra dưới hai hình thức là xuất khẩu trực tiếp và xuất
khẩu gián tiếp.
b. Các hình thức xuất khẩu
Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt
động bán hàng trực tiếp của một công ty cho các khách hàng của mình ở thị
trường nước ngoài.
Việc các công ty bán hàng
sang thị trường quốc gia khác là hoạt động tham gia quốc tế của các công ty đó.
Các công ty có kinh nghiệm quốc tế thường trực tiếp bán các sản phẩm của mình
ra thị trường nước ngoài. Khách hàng là những ai có nhu cầu mua và tiêu dùng
sản phẩm của công ty. Để thâm nhập thị trường quốc tế qua xuất khẩu trực tiếp,
các công ty thường sử dụng hai hình thức chủ yếu sau:
* Đại diện bán hàng
Đại diện bán hàng là hình
thức bán hàng không mang danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người ủy
thác nhằm nhận lương và một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị hàng hóa bán được.
Trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt động như là nhân viên bán hàng của công ty
ở thị trường nước ngoài. Công ty sẽ ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng ở thị
trường đó.
* Đại lý phân phối
Đại lý phân phối là người
mua hàng hóa của công ty để bán theo kênh tiêu thụ ở khu vực mà công ty phân
định. Công ty khống chế phạm vi phân phối, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài.
Đại lý phân phối chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng hóa ở thị
trường đã phân định và thu lợi nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình
thức bán hàng hóa và dịch vụ của công ty ra nước ngoài thông qua trung gian
(thông qua người thứ 3)
Các trung gian mua bán chủ
yếu trong kinh doanh xuất khẩu là: đại lý, công ty quản lý xuất nhập khẩu và
công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu
hàng hóa của công ty nhưng trợ giúp công ty xuất khẩu hàng hóa sang thị trường
nước ngoài.
* Đại lý (Agent)
Đại lý là các cá nhân hay
tổ chức đại diện cho nhà xuất khẩu thực hiện một hay một số hoạt động nào đó ở
thị trường nước ngoài.
Đại lý chỉ thực hiện một công việc nào đó
cho công ty ủy thác và nhận thù lao. Đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hóa.
Đại lý là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa công ty và khách hàng ở thị
trường nước ngoài.
* Công ty quản lý xuất khẩu (Export
management company)
Công ty quản lý xuất khẩu là các công ty
nhận ủy thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hóa.
Công ty quản lý xuất khẩu hàng hóa hoạt
động trên danh nghĩa của công ty xuất khẩu nên là nhà xuất khẩu gián tiếp. Công
ty quản lý xuất khẩu đơn thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ
xuất khẩu. Bản chất công ty quản lý xuất khẩu là làm các dịch vụ quản lý và thu
được một khoản thù lao nhất định từ các hoạt động đó.
* Công ty kinh doanh xuất khẩu (Export
trading company)
Công ty kinh doanh xuất khẩu là công ty
hoạt động như nhà phân phối độc lập có chức năng kết nối các khách hàng nước
ngoài với các công ty xuất khẩu trong nước để đưa các hàng hóa ra nước ngoài
tiêu thụ.
Thực hiện các hoạt động
liên quan trực tiếp đến xuất khẩu, cung ứng các dịch vụ xuất nhập khẩu và thương
mại đối lưu, thiết lập và mở rộng các kênh phân phối, tài trợ cho các dự án
thương mại và đầu tư, trực tiếp thực hiện sản xuất để bổ trợ một công đoạn nào
đó cho các sản phẩm, thí dụ bao gói, in ấn…
Công ty kinh doanh xuất khẩu có kinh
nghiệm, chuyên sâu về thị trường nước ngoài và có các chuyên gia chuyên làm
dịch vụ xuất khẩu. Các công ty kinh doanh xuất khẩu có nguồn thu từ các dịch vụ
xuất khẩu và tự bỏ chi phí cho hoạt động của mình. Các công ty này có thể cung
cấp các chuyên gia xuất khẩu cho các công ty xuất khẩu.
* Đại lý vận tải
Đại lý vận tải là các công ty thực hiện
dịch vụ thuê vận chuyển và những hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng
hóa như khai báo hải quan, áp thuế hải quan, thực hiện giao nhận chuyên chở và
bảo hiểm.
Các đại lý vận tải này cũng thực hiện các
nghiệp vụ xuất khẩu và phát triển nhiều loại hình dịch vụ giao nhận hàng hóa
đến tận tay người nhận. Bản chất của các đại lý vận tải hoạt động như các công
ty kinh doanh dịch vụ giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí
cả dịch vụ bao gói hàng hóa cho phù hợp với phương thức vận chuyển, mua bảo
hiểm hàng hóa cho hoạt động của họ.
c. Ưu nhược điểm của hình thức thâm nhập
thông qua xuất khẩu
* Ưu điểm: Thâm nhập thị trường nước ngoài
thông qua hình thức xuất khẩu sẽ giúp cho các công ty tăng được doanh số bán
hàng, tiếp thu được kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, tận dụng được những năng
lực dư thừa và tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Đặc biệt, hình thức thâm nhập
này ít bị rủi ro, không tốn nhiều chi phí nên dễ áp dụng trong giai đoạn đầu
mới thâm nhập thị trường quốc tế.
* Nhược điểm: Thâm nhập thị trường nước
ngoài thông qua hình thức xuất khẩu cũng gây cho công ty các khó khăn trong
việc tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng nên không có các biện
pháp mạnh để cạnh tranh. Mặt khác, các công ty cũng không am hiểu sâu sắc phong
tục tập quán, luật pháp của thị trường nơi công ty thâm nhập nên cũng dễ bị mất
thị trường.
CÂU 32: VÌ SAO CÁC CÔNG TY THỰC HIỆN
MUA BÁN ĐỐI LƯU?HÃY LIỆT KÊ CÁC HÌNH THỨC MUA BÁN ĐỐI LƯU CHỦ YẾU?
a. Khái niệm
Buôn bán đối lưu là phương
thức mua bán trong đó hai bên trực tiếp trao đổi các hàng hóa hoặc các dịch vụ
có giá trị tương đương nhau.
Các công ty xuất khẩu muốn
bán hàng ở các thị trường nước ngoài đôi khi cũng gặp phải những vấn đề khó
khăn về thanh toán hoặc về yêu cầu nhập hàng hóa của chính bạn hàng. Do đó, các
công ty xuất khẩu lựa chọn thâm nhập thị trường nước ngoài bằng hình thức mua
bán đối lưu. Thực chất, buôn bán đối lưu là hoạt động xuất khẩu gắn liền với
nhập khẩu nên các công ty xuất khẩu không phải lúc nào cũng sử dụng hình thức
này.
b. Các hình thức mua bán đối lưu
Trên thế giới có rất nhiều
hình thức mua bán đối lưu nhưng xét về khía cạnh thâm nhập thị trường quốc tế,
các công ty xuất nhập khẩu thường sử dụng các hình thức mua bán đối lưu sau:
* Đổi hàng (barter)
Đổi hàng là hình thức trong đó các bên cũng
trao đổi trực tiếp hàng hóa, dịch vụ này lấy hàng hóa, dịch vụ khác.
Các công ty xuất khẩu sử dụng hình thức này
để đưa cac sản phẩm hàng hóa của mình sang thị trường nước ngoài, đồng thời
công ty phải nhận từ thị trường nước ngoài một lượng hàng hóa, dịch vụ khác
tương đương. Do đó, hiện nay hình thức này được sử dụng rất hạn chế.
* Mua bán đối lưu (Counter purchase)
Mua bán đối lưu là việc một công ty giao hàng
hóa và dịch vụ cho khách hàng ở một nước khác với cam kết sẽ nhận một số lượng
hàng hóa xác định trong tương lai từ khách hàng ở nước đó.
Hình thức này cho phép các công ty xuất
khẩu hàng hóa của mình sang thị trường nước khác một cách dễ dàng hơn hình thức
đổi hàng. Tuy nhiên, công ty có trách nhiệm phải nhận lại những hàng hóa cụ thể
từ thị trường đó trong tương lai.
* Mua bồi hoàn (compensasion)
Mua bồi hoàn là hình thức trong đó một công
ty xuất khẩu cam kết sẽ mua lại hàng hóa của khách hàng có giá trị tương đương
với khoản mà khách hàng đã bỏ ra.
Hình thức này cho phép các công ty xuất
khẩu trao đổi hàng hóa với khách hàng mà không phải xác định loại hàng cụ thể
phải mua bồi hoàn trong tương lai. Tuy nhiên, giá trị và đồng tiền thanh toán
trong đơn đặt hàng của các công ty xuất khẩu phải tương đương với giá trọ hàng
hóa mà họ xuất đi.
* Chuyển nợ
Chuyển nợ là hình thức trong đó công ty
xuất khẩu chuyển trách nhiệm cam kết đặt hàng từ phía khách hàng nước ngoài của
công ty cho một công ty khác.
Thực chất của hình thức này là tạo điều
kiện cho các công ty xuất khẩu chuyển nhượng trách nhiệm phải mua những mặt
hàng không phù hợp của mình cho các công ty khác có điều kiện hơn. Trong hình
thức mua bán đối lưu này, các công ty xuất khẩu sẽ dễ dàng tách hoạt động bán
hàng và mua hàng để thâm nhập thị trường nước ngoài.
* Mua lại
Mua lại là hình thức mua bán đối lưu trong
đó công ty xuất khẩu bán một dây chuyền hay thiết bị máy móc cho khách hàng ở
thị trường nước ngoài và nhận mua lại các sản phẩm được sản xuất ra từ dây
chuyền hay các thiết bị máy móc đó.
Hình thức mua lại thường được sử dụng nhiều
trong các ngành công nghiệp chế biến. Các công ty xuất khẩu có thể bán máy móc
thiết bị của mình và nhận lại các sản phẩm được sản xuất ra từ các máy móc
thiết bị đó.
c. Ưu nhược điểm của hình thức mua bán đối
lưu
* Ưu điểm
Thâm nhập thị trường nước ngoài thông qua
hình thức mua bán đối lưu có thể giúp cho các công ty ít phải sử dụng ngoại tệ
mạnh để thanh toán, nên tiết kiệm được chi phí tài chính và ảnh hưởng của tỷ
giá. Hình thức này cũng ít tốn kém và phù hợp với các nước kém phát triển nên
được các công ty xuất khẩu sử dụng nhiều khi bắt đầu thâm nhập vào thị trường
các nước này.
* Nhược điểm
Thâm nhập thị trường nước
ngoài thông qua hình thức mua bán đối lưu có thể gây khó khăn cho các công ty
bởi vì nó yêu cầu công ty phải gắn hoạt động xuất khẩu với hoạt động nhập khẩu.
Trong một số trường hợp, nhập khẩu hàng hóa không phải là mục đích chính của
công ty và cũng không phù hợp với khả năng kinh doanh của công ty. Do đó, hình
thức này đòi hỏi các công ty xuất khẩu phải có những chuyên môn sâu về các loại
hàng hóa nên có thể gây bất lợi cho họ trong xuất khẩu.
CÂU 33: THẾ NÀO LÀ HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG
GIẤY PHÉP VÀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN. PHÂN TÍCH ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA CHÚNG.
7.2.1. Hợp đồng sử dụng giấy phép
(licensing)
a. Khái niệm
Hợp đồng sử dụng giấy phép là hình thức
thâm nhập thị trường nước ngoài, trong đó một công ty (bên bán giấy phép) sẽ
trao cho một công ty khác (bên mua giấy phép) quyền được sử dụng các tài sản vô
hình mà họ đang sở hữu trong một thời gian xác định. Để đổi lại, bên mua giấy
phép phải trả tiền bản quyền cho bên bán giấy phép. Số tiền này thường được
tính trên cơ sở doanh thu bán hàng và trả theo kỳ vụ. Các tài sản vô hình có
thể bao gồm bản quyền sáng chế, phát minh, công thức, thiết kế, phương pháp,
chương trình, nhãn mác sản phẩm và tên gọi sản phẩm đã được đăng ký.
Hiện nay có 3 loại hợp đồng
sử dụng giấy phép
Hợp đồng sử dụng giấy phép độc quyền cho
phép bên mua giấy phép được độc quyền sử dụng các tài sản vô hình trong việc
sản xuất và bán các sản phẩm trêm một khu vực địa lý xác định.
Hợp đồng sử dụng giấy phép thông thường cho
phép bên mua giấy phép được quyền sử dụng tài sản vô hình trên một phạm vi lãnh
thổ nhất định nhưng không cho quyền độc nhất trên phạm vi lãnh thổ đó.
Hợp đồng sử dụng giấy phép chéo hình thành
khi các công ty muốn trao đổ tài sản vô hình với nhau. Hợp đồng này cho phép
mỗi công ty được sử dụng công nghệ của công ty kia trong việc sản xuất hàng hóa
của mình, nhờ vậy mà có thể giảm bớt chi phí cho nghiên cứu và phát triển. Đây
là một thỏa thuận rất rộng, có giá trị trong hầu hết các lĩnh vực, chỉ trừ một
số bản quyền về sản xuất sản phẩm bán dẫn của công ty n
b. Ưu điểm của hình thức hợp đồng sử dụng
giấy phép
* Ưu điểm 1
Hầu hết các hợp đồng sử
dụng giấy phép đều yêu cầu bên được cấp phép các nguồn vốn cần thiết thông qua
việc xây dựng các cơ sở sản xuất đặc biệt hoặc sử dụng tiềm lực dư thừa hiện
có. Vì vậy, thuận lợi cơ bản của hợp đồng cấp phép là công ty không phải
hứng chịu vốn phát triển khi thâm nhập thị trường nước ngoài.
đối với các công ty hạn chế các yếu tố trên
nhưng lại sở hữu các bí quyết sản xuất thì hoạt động cấp phép là thuận lợi tốt
nhất cho việc phát triển ở thị trường nước ngoài thông qua việc tận dụng các
nguồn lực của đối tác.
* Ưu điểm 2
Do không phải tốn thời gian để xây dựng và
khởi công các cơ sở mới của mình, bên cấp giấy sẽ có điều kiện nhanh chóng thâm
nhập thị trường. Đối với
phương thức thâm nhập thông qua hợp đồng, do sẵn có cơ sở hạ tầng cũng như các
kênh thông tin, các nguồn lực của bên được cấp phép mà bên cấp phép có thể bỏ
qua các giai đoạn đầu, nhanh chóng tham gia hoạt động kinh doanh và nhanh chóng
chiếm lĩnh thị trường.
* Ưu điểm 3
Hợp đồng sử dụng giấy
phép là một hình thức ít rủi ro hơn các hình thức khác khi thâm nhập thị trường
quốc tế.
Điều nay thể hiện cơ bản ở chỗ, khi thâm
nhập thị trường bằng hình thức hợp đồng cấp phép, công ty sẽ thu được một khoản
tiền nhất định- chính là phí cấp phép- mà khoản phí luôn luôn là lớn hoặc bằng
0. Có nghĩa là, trong trường hợp xấu nhất, khi đối tác kinh doanh không hiệu
quả thì công ty sẽ vẫn không mất tiền cho hoạt động cấp phép
* Ưu điểm 4
Hợp đồng sử dụng giấy phép có thể hỗ trợ
cho các công ty thâm nhập vào các thị trường bị hạn chế bởi các rào cản thương
mại, rào cản đầu tư.
Nếu một công ty muốn thâm nhập một thị
trường mà chính phủ của nước đối tác lại không cho phép các hoạt động đầu tư từ
phía nước ngoài hoặc chỉ cho phép đầu tư ở mức liên doanh thì việc công ty thực
hiện các phương thức thâm nhập thị trường khác là không thể, mà chỉ có thể thực
hiện thông qua phương thức hợp đồng cấp phép.
đối với những thị trường mà có những rào
cản về nhập khẩu lớn như thuế nhập khẩu cao, các chính sách nhập khẩu nghiêm ngặt
thì việc sử dụng các hình thức thâm nhập khác như các hình thức kinh doanh trên
lĩnh vực ngoại thương sẽ là không hiệu quả bằng việc sử dụng hợp đồng cấp phép.
Bên cạnh đó, việc cấp phép cũng có nghĩa là công ty sẽ cho phép đối tác sản
xuất trên lãnh thổ của chính họ, như vậy, công ty sẽ tránh được các khoản chi
phí vận tải - mà rõ ràng rằng những khoản này chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
* Ưu điểm 5
Hợp đồng sử dụng giấy
phép có thể giúp công ty hạn chế hiện tượng hàng hóa giả mạo xuất hiện trong
chợ đen trên thị trường nước ngoài. Các nhà sản xuất trong một chừng mực
nào đó có thể hạn chế bớt những người bán hàng lậu bằng cách bán giấy phép cho
các công ty ở nước ngoài để họ đưa ra thị trường các sản phẩm có mức giá cạnh
tranh hơn. các công ty mua giấy phép lúc này sẽ phải có trách nhiệm đối với
việc chống lại các hoạt động buôn bán lậu các sản phẩm trên thị trường của họ.
Do đó, để hạn chế hiện
tượng giả mạo hàng hóa trên thị trường nước ngoài, các công ty có thể sử dụng
hình thức thâm nhập thông qua hợp đồng sử dụng giấy phép.
c. Nhược điểm của hình thức hợp đồng sử
dụng giấy phép
* Nhược điểm 1
Nhược điểm cơ bản của hợp đồng cấp phép là
bên cấp phép rất khó kiểm soát các hoạt động của bên được cấp phép; từ đó, nảy
sinh ra 3 vấn đề cơ bản:
-
Không tận dụng được
hiệu ứng kinh nghiệm.
-
Không phát huy được
tính kinh tế của địa điểm.
-
Khó phối hợp các chiến
lược.
* Nhược điểm 2
Thâm nhập thị trường thông qua hợp đồng sử
dụng giấy phép có thể tạo ra những đối thủ cạnh tranh trong tương lai. Các hợp
đồng này thường được ký kết trong khoảng thời gian một vài năm, hoặc thậm chí
cả thập kỷ và hơn nữa. Trong thời gian đó, bên mua giấy phép có thể trở nên rất
phát đạt trong việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có sử dụng tài sản vô hình
của công ty.
* Nhược điểm 3
Việc cấp phép quyền sử dụng các tài sản vô
hình cho các đối tác khác nhau ở các quốc gia khác nhau đặt ra một vấn đề quan
trọng cho công ty - đó là quản lý chất lượng. Việc không kiểm soát tốt chất
lượng đầu ra của các đối tác sẽ khiến cho công ty có nguy cơ mất thị trường,
mất danh tiếng.
* Nhược điểm 4
Mâu thuẫn lợi ích giữa các bên có thể làm
hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Điều này có thể xảy ra có một thực tế là
không phải lúc nào doanh thu cũng tỷ lệ thuận với lợi nhuận,mục tiêu của bên
cấp phép là chiếm lĩnh thị phần, mở rộng thị trường thông qua giảm giá thành
sản phẩm; nhưng mục tiêu của bên được cấp phép là gia tăng doanh số bán dựa
trên gia tăng giá bán.
7.2.2. Hợp đồng nhượng quyền (franchising)
a. Khái niệm
Hợp đồng nhượng quyền (hợp đồng đại lý đặc
quyền) là một hợp đồng hợp tác
kinh doanh thông qua đó người nhượng quyền trao và cho phép người được nhượng
quyền sử dụng tên công ty rồi trao cho họ nhãn hiệu, mẫu mã và tiếp tục thực
hiện sự giúp đỡ hoạt động kinh doanh đối với đối tác đó, ngược lại, công ty
nhận được một khoản tiền mà đối tác trả cho công ty
Franchising là một hình thức đặc biệt của
licensing, tuy nhiên có 3 điểm lớn để phân biệt giữa 2 hình thức này là:
Bảng
6.1. So sánh giữa hình thức hợp đồng chuyển nhượng và hợp đồng sử dụng giấy
phép
FRANCHISING
|
LICENSING
|
Đối tượng trao đổi giữa các bên trong hợp
đồng nhượng quyền là thương hiệu - vốn là một tài sản được bảo hộ lâu dài;
nên hợp đồng franchising thường được ký kết và tiến hành trong dài hạn
|
Đối tượng trao đổi giữa các bên trong hợp
đồng cấp phép chủ yếu là các công thức, thiết kế, bản quyền…; vì vậy thời hạn
trong một hợp đồng nhượng quyền thường ngắn hạn, tối đa chỉ kéo dài 20 năm
|
Thường được sử dụng trong lĩnh vực dịch
vụ
|
Thường được sử dụng trong lĩnh vực sản
xuất
|
Bên cạnh việc trao quyền sử dụng nhãn
hiệu, mẫu mã; bên nhượng quyền còn phải trợ giúp đối tác trong các hoạt động
kinh doanh.
|
Trách nhiệm của bên cấp phép chỉ dừng lại
ở việc trao quyền sử dụng các tài sản vô hình cho bên được cấp phép.
|
b. Ưu điểm của hợp đồng nhượng quyền
Về cơ bản, ưu điểm đối với người nhượng
quyền của franchising cũng giống như ưu điểm đối với người cấp phép của
licensing.
Đầu tiên là vốn. Vốn luôn là một mối lo ngại lớn nhất cho các công ty khi muốn mở rộng
hoạt động kinh doanh. Nhưng trong hệ thống nhượng quyền, người bỏ vốn ra để mở
rộng hoạt động kinh doanh lại chính là người được nhượng quyền. Điều này giúp
cho người nhượng quyền có thể mở rộng hoạt động kinh doanh bằng chính đồng vốn
của người khác và giảm chi phí và rủi ro cho việc thâm nhập thị trường. Đồng
thời việc phải bỏ vốn kinh doanh là động lực thúc đẩy bên được nhượng quyền
phải cố gắng hoạt động có hiệu quả, mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho bên nhượng
quyền.
tận dụng được những hiểu
biết về thị trường địa phương của người được nhượng quyền. Việc tận dụng những
hiểu biết này sẽ giúp cho công ty thuận lợi hơn trong việc thâm nhập thị
trường, nắm bắt thông tin thị trường và thị hiếu khách hàng
c. Nhược điểm của hợp đồng nhượng quyền
* Nhược điểm 1
Những nhược điểm của
franchising thường ít hơn so licensing, bởi vì franchising thường được sử dụng
đối với các công ty dịch vụ, mà các công ty dịch vụ thì thường ít có nhu cầu
phối hợp hoạt động giữa các thị trường để đạt tính kinh tế của địa điểm và hiệu
ứng kinh nghiệm. Tuy nhiên, hình thức franchising vẫn vấp phải nhược điểm là
khó phối hợp chiến lược toàn cầu. Rõ ràng rằng, nhà nhượng quyền không thể vì
mục tiêu phát triển toàn cầu của mình mà có thể yêu cầu nhà được nhượng quyền ở
quốc gia này phải chi vốn hỗ trợ cho nhà được nhượng quyền ở quốc gia khác.
* Nhược điểm 2
Bên cạnh đó, cũng tương tự
như licensing, các bên trong hợp đồng nhượng quyền cũng có thể bị mâu thuẫn lẫn
nhau về mặt lợi ích.
* Nhược điểm 3
quản lý chất lượng. Cơ sở của hợp đồng
nhượng quyền là thương hiệu của một công ty đã được chuyển nhượng sẽ đưa thông
điệp đến khách hàng về chất lượng của sản phẩm của công ty.
Chính khoảng cách về địa lý giữa các công
ty nhượng quyền ở các quốc gia khác nhau có thể làm cho chất lượng sản phẩm
khác biệt. Thêm vào đó, số lượng của các bên được nhượng quyền, sẽ đem lại
những khó khăn rất lớn trong việc quản lý chất lượng.
Một cách để hạn chế nhược điểm này là thành
lập các chi nhánh ở các quốc gia mà công ty muốn mở rộng. Các chi nhánh này có
thể thuộc sở hữu hoàn toàn của công ty hoặc được thành lập bởi một hợp đồng
liên doanh với công ty nước ngoài. Các chi nhánh này thừa nhận quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên trong việc thiết lập hoạt động nhượng quyền ở các quốc gia
hay vùng lãnh thổ.
CÂU 34: CHI NHÁNH SỞ HỮU ĐẦU TƯ TOÀN
BỘ LÀ GÌ? PHÂN TÍCH CÁC ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA CHÚNG.
a. Khái niệm
Đây là hình thức thâm nhập thị trường nước
ngoài thông qua đầu tư, trong đó công ty sẽ thiết lập một chi nhánh ở nước sở
tại, do công ty sở hữu 100% vốn và kiểm soát hoàn toàn. Chi nhánh sở hữu 100%
vốn có thể được thiết lập bằng cách xây dựng mới hoàn toàn (như nhà xưởng, văn
phòng và thiết bị), hoặc bằng cách mua lại một công ty trên thị trường nước sở
tại, tiếp quản các cơ sở và hoạt động sẵn có của nó.
. Mua lại là một chiến lược đặc biệt tốt
khi công ty địa phương đang các mác nhãn sản phẩm, tên hiệu và quy trình công
nghệ có giá trị.
b. Ưu điểm của chi nhánh sở hữu toàn bộ
Tham gia vào thị trường quốc tế thông qua
chi nhánh sỡ hữu toàn bộ giúp các nhà quản lý có thể kiểm soát hoàn toàn đối
với các hoạt động hàng ngày trên thị trường mục tiêu, đồng thời trực tiếp tiếp
xúc với công nghệ cao, các quy trình và các tài sản vô hình khác trong chi
nhánh. Việc kiểm soát hoàn toàn của chủ sở hữu cho phép giảm bớt khả năng tiếp
cận của các đối thủ cạnh tranh với các ưu thế của công ty - điều này đặc biệt
quan trọng đối với công ty hoạt động dựa trên công nghệ cao. Các nhà quản lý
cũng còn có thể kiểm soát được khối lượng sản xuất và giá cả của chi nhánh. Mặt
khác, chi nhánh sở hữu toàn bộ là cách thức thâm nhập thị trường rất tốt khi
công ty muốn liên kết tất cả các hoạt động của tất cả các chi nhánh của mình ở
các nước. Các công ty với chiến lược toàn cầu coi mỗi thị trường quốc gia của
họ là một phần của thị trường toàn cầu được liên kết chặt chẽ với nhau. Vì vậy,
khả năng thực hiện việc kiểm soát hoàn toàn đối với một chi nhánh sở hữu hoàn
toàn là rất hấp dẫn đối với các công ty theo đuổi chiến lược toàn cầu.
c. Nhược điểm của chi nhánh sở hữu toàn bộ
Thâm nhập thị trường thông qua hình thức
chi nhánh sở hữu toàn bộ có thể là những quyết định rất tốn kém. Các công ty
phải cung cấp tài chính từ bên trong hoặc gọi vốn thông qua thị trường tài
chính. Việc có được các khoản tiền cần thiết là rất khó khăn đối với các công
ty nhỏ và vừa. Thông thường chỉ có các công ty lớn mới có thể được trang bị đầy
đủ để thành lập các chi nhánh quốc tế sở hữu toàn bộ. Tuy nhiên, các công dân
của một nước đang sống ở nước ngoài có thể lợi dụng ưu thế về hiểu biết và khả
năng đặc biệt của mình trong những trường hợp này. Bên cạnh đó, rủi ro trong
trường hợp này thường là cao, vì một chi nhánh sở hữu toàn bộ đòi hỏi một khối
lượng nguồn lực đáng kể từ công ty. Nguyên nhân của rủi ro là những bất ổn về
chính trị và xã hội cũng như sự bất ổn nói chung trên thị trường mục tiêu.
Những rủi ro như vậy có thể đặt cả nhân sự cũng như tài sản của công ty trước
những mối nguy hiểm nghiêm trọng. Người chủ sở hữu duy nhất của chi nhánh cũng
phải chấp nhận toàn bộ rủi ro trong trường hợp khách hàng tẩy chay hay từ chối
sản phẩm của công ty. Các công ty mẹ có thể giảm bớt những rủi ro như vậy bằng
cách tìm hiểu về người tiêu dùng trên thị trường kỹ hơn trước khi tham gia vào
đó.
CÂU 35: THẾ NÀO LÀ LIÊN DOANH, LIÊN
MINH CHIẾN LƯỢC? TRÌNH BÀY CÁC ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA CHÚNG.
a. Khái niệm
Trong những tình huống nhất định, các công
ty muốn được chia sẻ quyền sở hữu đối với một đối tác trong hoạt động kinh
doanh. Một công ty riêng biệt được thành lập và đồng sở hữu bởi ít nhất hai pháp
nhân độc lập để đạt được những mục tiêu kinh doanh chung được gọi là một công
ty liên doanh. Các đối tác trong liên doanh có thể là các công ty tư nhân, các
cơ quan chính phủ hoặc các công ty do chính phủ sở hữu. Mỗi bên có thể đóng
góp bất kể thứ gì được các đối tác đánh giá là có giá trị, bao gồm khả năng
quản lý, kinh nghiệm marketing, khả năng tiếp cận thị trường, công nghệ sản
xuất, vốn tài chính và các kiến thức cũng như kinh nghiệm về nghiên cứu phát
triển.
b. Các hình thức liên doanh
Có 4 hình thức liên doanh chủ yếu,mỗi hình
thức trong đó chỉ gồm 2 đối tác. Tuy nhiên, các loại hình này cũng có thể được
áp dụng cho các liên doanh nhiều đối tác hơn.
Liên doanh hội nhập phía trước (forward
integration joint venture):
Trong hình thức liên doanh này, các bên thỏa thuận đầu tư cùng nhau trong các
hoạt động kinh doanh thuộc mảng xuôi dòng - các hoạt động tiến dần đến việc sản
xuất các sản phẩm hoàn chỉnh hay phục vụ đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng.
Liên doanh hội nhập phía sau (Backward
integration joint venture):
Là hình thức liên doanh trong đó các công ty có dầu hiệu chuyển sang các hoạt
động kinh doanh thuộc mảng ngược dòng - các hoạt động tiến dần đến việc sản
xuất và khai thác các nguyên liệu thô ban đầu.
Liên doanh mua lại (Buyback joint venture): Là hình thức liên doanh trong đó các đầu
vào của nó được cung cấp hoặc/và các đầu ra của nó được tiếp nhận bởi từng đối
tác trong liên doanh. Một liên doanh mua lại được thành lập khi một cơ sở sản
xuất có một quy mô tối thiểu nhất định, cần phải đạt được hiệu suất quy mô
trong khi không bên nào có đủ nhu cầu để đạt được điều đó.
Liên doanh đa giai đoạn (Multistage joint
venture): Là hình thức
liên doanh trong đó một đối tác hội nhập trong mảng xuôi dòng trong khi đó đối
tác kia hội nhập theo mảng ngược dòng. Một liên doanh đa giai đoạn thường được
thành lập khi một công ty sản xuất ra hàng hóa hay dịch vụ mà nhiều công ty
khác cần.
c. Ưu điểm của liên doanh
Liên doanh có một số ưu điểm quan trọng đối
với các công ty đang muốn thâm nhập thị trường nước ngoài. Nhiều công ty dựa
vào liên doanh để giảm bớt rủi ro. Nói chung, một liên doanh có rủi ro ít hơn
là công ty sở hữu toàn bộ, vì mỗi bên đối tác chỉ chịu rủi ro đối với phần đóng
góp của mình. Như vậy, việc thâm nhập qua hình thức liên doanh là đặc biệt sáng
suốt khi việc thâm nhập đòi hỏi phải đầu tư lớn hay khi có sự bất ổn lớn về
chính trị và xã hội trên thị trường mục tiêu. Tương tự như vậy, một công ty có
thể sử dụng liên doanh để học hỏi thêm về môi trường kinh doanh nội địa trước
khi lập ra một chi nhánh sở hữu toàn bộ. Trên thực tế, nhiều công ty liên doanh
thường bị một bên đối tác mua lại toàn bộ sau khi họ đã có đủ kinh nghiệm trên
thị trường nội địa. Mặt khác các công ty có thể sử dụng liên doanh để thâm nhập
thị trường quốc tế, nếu không sẽ bỏ lỡ cơ hội của mình. Chẳng hạn, một số chính
phủ yêu cầu các công ty nước ngoài chia sẻ quyền sở hữu với các công ty trong
nước, hoặc đưa ra những khuyến khích ưu đãi để họ thành lập liên doanh. Những
yêu cầu như vậy rất phổ biến ở các nước đang phát triển. Mục tiêu ở đây là cải
thiện tính cạnh tranh của các công ty trong nước bằng cách tạo có hội cho họ có
được đối tác và học hỏi được từ các đối tác quốc tế đó. Các công ty có thể tiếp
cận với mạng lưới phân phối quốc tế của một công ty khác thông qua liên doanh.
d. Nhược điểm của liên doanh
Một trong những nhược điểm của liên doanh
là có thể gây ra tranh chấp quyền sở hữu giữa các bên. Tranh chấp phổ biến nhất
có lẽ khi việc quản lý được chia đều- có nghĩa là khi mỗi bên đều có đại diện
quản lý cao nhất trong liên doanh, thường được gọi là liên doanh 50: 50. Bởi vì
không một nhà quản lý của bên nào có quyền ra quyết định cuối cùng nên sẽ dẫn
đến việc tê liệt quản lý, gây ra những vấn đề chậm trễ trong việc phản ứng lại
đối với những thay đổi của thị trường. Các tranh chấp còn có thể xảy ra do
không có sự nhất trí về các khoản đầu tư trong tương lai và chia lợi nhuận. Các
bên có thể giảm bớt khả năng xảy ra tranh chấp và vấn đề không thể ra quyết
định bằng cách đưa ra tỷ lệ sở hữu không bằng nhau, trong đó một bên chiếm từ
51% quyền sở hữu tương đương với quyền bỏ phiếu và quyền đưa ra quyết định cuối
cùng. Một liên doanh nhiều hơn (thường gọi là công-xóc-xi-om) cũng thường có
đặc điểm là không đều. Chẳng hạn quyền sở hữu của một liên doanh bốn bên có thể
theo tỷ lệ 20-20-20-40, trong đó người sở hữu 40% sẽ có quyền đưa ra quyết định
cuối cùng đối với công ty. Ngoài ra, việc mất kiểm soát đối với một liên doanh
có thể xảy ra khi chính quyền sở tại là một trong số các bên đối tác. Tình
trạng này diễn ra nhiều nhất ở các ngành công nghiệp được coi là nhạy cảm về
văn hóa hoặc có tầm quan trọng đối với an ninh quốc gia như truyền thanh, hạ
tầng cơ sở và quốc phòng. Như vậy, lợi nhuận của liên doanh có thể bị ảnh hưởng
do chính quyền địa phương có những động cơ dựa trên việc bảo tồn văn hóa hay an
ninh.
7.3.3. Liên minh chiến lược
a. Khái niệm
Đôi khi các công ty sẵn sàng hợp tác với
nhau nhưng không muốn đi quá xa để thành lập một công ty liên doanh riêng biệt.
Mối quan hệ từ hai pháp nhân trở lên (nhưng không thành lập ra thêm một pháp
nhân riêng biệt) để đạt được những mục tiêu của mỗi bên được gọi là liên minh
chiến lược. Cũng giống như liên doanh, các liên minh chiến lược có thể được
thành lập trong một thời gian tương đối ngắn hoặc trong nhiều năm, phụ thuộc
vào những mục tiêu của các bên tham gia. Các liên minh có thể được thành lập
giữa các công ty và những nhà cung cấp của họ, các khách hàng của họ, thậm chí
với các đối thủ cạnh tranh của họ. Để thành lập ra những liên minh như vậy,
thông thường một bên sẽ mua lại cổ phần của bên kia. Như vậy là các bên đều có
lợi ích trực tiếp gắn với kết quả hoạt động trong tương lai của các đối tác
kia.
Liên minh chiến lược tạo ra được một số ưu
thế quan trọng cho các công ty. Nhờ có liên minh chiến lược mà các công ty có
thể chia sẻ chi phí của nhữg dự án đầu tư quốc tế. Chẳng hạn, nhiều công ty
phát triển sản phẩm mới không chỉ áp dụng những công nghệ hiện đại mới nhất mà
còn rút ngắn vòng đời của những sản phẩm hiện có. Vòng đời sản phẩm ngắn hạn sẽ
làm giảm thời gian thu hồi vốn của công ty cho việc đầu tư. Vì vậy, nhiều công
ty đã hợp tác để chia sẻ chi phí phát triển sản phẩm mới. Các công ty thường sử
dụng liên minh chiến lược để tác động vào các lợi thế đặc biệt của đối thủ cạnh
tranh. Các công ty tìm đến liên minh chiến lược cũng vì nhiều lý do giống như
đối với liên doanh. Một số sử dụng liên minh để có được các kênh phân phối trên
thị trường mục tiêu, còn một số khác sử dụng để giảm bớt rủi ro.
c. Nhược điểm của liên minh chiến lược
Bất lợi lớn nhất của liên minh chiến lược
là nó có thể tạo ra một đối thủ cạnh tranh sở tại hay thậm chí toàn cầu trong
tương lai. Chẳng hạn một đối tác có thể sử dụng liên minh để thử nghiệm thị
trường và chuẩn bị đưa vào một chi nhánh sở hữu toàn bộ. Bằng cách từ chối cộng
tác với các công ty khác trong những lĩnh vực là chuyên môn cốt lõi của mình,
các công ty có thể giảm bớt khả năng tạo ra đối thủ cạnh tranh đe dọa mảng hoạt
động chính của mình. Cũng như vậy, một công ty có thể đòi hỏi về những điều
khoản hợp đồng, trong đó hạn chế các đối thủ cạnh tranh với mình trong một số
sản phẩm nhất định hoặc trên một số vùng địa lý. Các công ty cũng cần thận
trọng để bảo vệ các chương trình nghiên cứu đặc biệt, công nghệ sản phẩm cũng
như kinh nghiệm về marketing không phải cam kết chia sẻ trong liên minh.
Cũng như trong trường hợp liên doanh, các
tranh chấp có thể nảy sinh và cuối cùng làm xói mòn sự hợp tác. Như là một
nguyên tắc, khi soạn thảo các hợp đồng liên mình, phải tính đến cáng nhiều càng
tốt những tranh chấp có thể xảy ra. Tuy nhiên, các vấn đề giao tiếp và các khác
biệt về văn hóa vẫn có thể xảy ra.
AEC
Cộng đồng kinh tế chung ASEAN (AEC) là một thị trường
chung duy nhất trong khu vực các nước thành viên ASEAN, dự định sẽ được thành
lập vào năm 2015.
Tại Hội nghị ASEAN lần thứ 12 vào tháng 1-2007, các nhà
lãnh đạo ASEAN đã khẳng định, việc thành lập AEC vào năm 2015 sẽ là một trong
ba trụ cột quan trọng trong mục tiêu hội nhập kinh tế khu vực năm 2020 mà các
nước thành viên ASEAN đang nỗ lực hướng đến[1].
Theo Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh, AEC
được xây dựng dựa trên ba trụ cột chính: chính trị-an ninh, kinh tế, và văn
hóa-xã hội.
AEC hướng tới:
·
Một thị
trường duy nhất: tự do hóa các dòng chảy hàng hóa, dịch vụ, vốn, nguồn đầu tư
và nguồn lao động giữa các nước thành viên. Việc hướng tới một thị trường chung
với khoảng 600 triệu dân vào năm 2015 đồng nghĩa thị trường sẽ được mở rộng,
thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài khu vực. Hiệp định Thương mại tự do ASEAN
(AFTA) cũng sẽ được mở rộng, với mức thuế suất 0% cho hầu hết các loại hàng
hóa.
·
Một khu
vực kinh tế có tính cạnh tranh cao;
·
Một khu
vực phát triển kinh tế công bằng: AEC giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các nước thành viên. Các nước kém phát triển hơn có cơ hội được học hỏi kinh
nghiệm phát triển và tiếp cận với công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại từ các
nước có trình độ phát triển cao hơn.
·
Một khu
vực hội nhập đầy đủ trong nền kinh tế toàn cầu: Thị trường chung ASEAN giúp đẩy
mạnh triển khai các FTA với 6 đối tác lớn là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn
Độ, Australia và New Zealand, đồng thời tích cực đàm phán xây dựng Hiệp định
Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) nhằm tạo ra một không gian kinh tế mở
ở Đông Á.
·
Ổn định
an ninh khu vực.
·
Tăng
cường trao đổi văn hóa, giáo dục giữa các nước và cơ hội được tiếp cận với dịch
vụ y tế, xã hội hiện đại.
Chỉ còn 2 năm nữa, Cộng đồng kinh tế chung AEC sẽ hình
thành. Nhưng có một thực tế là, số doanh nghiệp Việt Nam biết đến AEC không
nhiều. Các doanh nghiệp chuẩn bị cho việc gia nhập AEC hiện chủ yếu là các
doanh nghiệp lớn, đã có đầu tư và cạnh tranh nhiều năm trên thị trường
ASEAN[2]. Trong khi đó, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông tin và sự
hiểu biết về AEC còn rất hạn chế.
Trong khi đó, một số nước khác trong khu vực, điển hình
như Thái Lan đã có sự chuẩn bị và lên kế hoạch khá cụ thể cho việc gia nhập
AEC.
Hướng đến một thị trường chung tạo ra nhiều cơ hội phát
triển nhưng cũng đầy thách thức, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh
sản phẩm với nhiều nước khác mạnh hơn trong khu vực. Ngay lúc này, hàng hóa
Việt Nam đã và đang chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ với các sản phẩm của Thái Lan,
Lào và Campuchia. Do đó, tích cực chuẩn bị ngay từ bây giờ (nâng cao chất
lượng, năng lực cạnh tranh sản phẩm, nguồn lực và đổi mới công nghệ,…) là cần thiết
và sẽ mang đến cơ hội cho Việt Nam bắt kịp với xu thế, trình độ phát triển của
khu vực, tăng sức cạnh tranh trong cộng đồng ASEAN.
TRÁI PHIẾU
Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ
của người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền
cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi
tức quy định. Người phát hành có thể là doanh nghiệp (trái
phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức
chính quyền như Kho bạc nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho
bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính
phủ). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp
hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi
trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi
(trái phiếu vô danh)
Trái chủ là người cho nhà phát hành vay
và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử dụng vốn vay của người
vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác
định trong hợp đồng vay
Đặc điểm cơ bản
Chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ có Công ty, mà còn có Chính phủ Trung ương và Chính phủ
địa phương.
·
Người mua trái phiếu chỉ là người cho chủ thể phát hành vay
tiền và là chủ nợ của chủ thể phát hành trái
phiếu. Khác với người mua cổ phiếu là
người Chủ sở hữu Công ty.
·
Thu nhập
của trái phiếu là tiền lãi, là khoản thu cố định
không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
·
Trái
phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi Công ty bị
giải thể hoặc phá sản thì trước hết Công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các
Chủ trái phiếu trước, sau đó mới chia cho các Cổ đông.
Với những đặc điểm
trên, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. Vì vậy, trái phiếu là loại chứng
khoán được các nhà đầu tư ưa chuộng.
Đặc trưng
Mệnh giá
trái phiếu: hay
còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi trên trái phiếu.
Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định
số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền
người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.
·
Lãi suất
danh nghĩa:
Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành công
bố được gọi là lãi suất danh
nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá trái
phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu.
·
Thời hạn
của trái phiếu:
là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả vốn lần
cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn có thời gian từ 1
năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên.
·
Kỳ trả
lãi: Là khoảng
thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Lãi suất trái
phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái phiếu thường
được mỗi năm hai hoặc một lần.
·
Giá phát
hành: Là giá
bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường giá phát hành được
xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thị
trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách thích hợp. Có
thể phân biệt 3 trường hợp:
1.
Giá phát
hành bằng mệnh giá (ngang giá);
2.
Giá phát
hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu);
3.
Giá phát
hành trên mệnh giá (giá gia tăng).
·
Dù trái
phiếu được bán với giá nào (ngang giá, giá
chiết khấu hay giá gia tăng), thì lợi tức luôn
được xác định theo mệnh giá của trái phiếu và khi đáo hạn, người có trái phiếu
sẽ được thanh toán theo mệnh giá của trái phiếu.[1]
Phân loại Trái phiếu[sửa]
1.
Phân
loại theo người phát hành:
·
Trái phiếu của Chính
phủ:
Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành trái phiếu để huy
động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn
được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy, Trái phiếu
Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất.
·
Trái
phiếu của doanh nghiệp: Là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và
công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn hoạt động. Trái phiếu doanh
nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng.
·
Trái
phiếu của ngân hàng và các tổ chức tài chính: các tổ chức này có thể phát hành trái
phiếu để tăng thêm vốn hoạt động.
2.
Phân
loại lợi tức trái phiếu
·
Trái
phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo một tỷ lệ phần
trăm (%) cố định tính theo mệnh giá.
·
Trái
phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi): Là loại
trái phiếu mà lợi tức được trả trong các kỳ có sự khác nhau và được tính theo
một lãi suất có sự biến đổi theo một lãi suất tham chiếu.
·
Trái
phiếu có lãi suất bằng không: Là loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi, nhưng được
mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả bằng mệnh giá
khi trái phiếu đó đáo hạn.
3.
Phân
loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành
·
Trái
phiếu bảo đảm:
Là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có giá trị làm vật đảm
bảo cho việc phát hành. Khi nhà phát hành mất khả năng thanh toán, thì trái chủ
có quyền thu và bán tài sản đó để thu hồi lại số tiền người phát hành còn nợ.
Trái phiếu bảo đảm thường bao gồm một số loại chủ yếu sau:
·
Trái phiếu
có tài sản cầm cố: Là loại trái phiếu bảo đảm bằng việc người phát hành cầm cố
một bất động sản để bảo đảm thanh toán cho trái chủ. Thường giá trị tài sản cầm
cố lớn hơn tổng mệnh giá của các trái phiếu phát hành để đảm bảo quyền lợi cho
trái chủ.
·
Trái phiếu
bảo đảm bằng chứng khoán ký quỹ: Là loại trái phiếu được bảo đảm bằng việc
người phát hành thường là đem ký quỹ số chứng khoán dễ chuyển nhượng mà mình sở
hữu để làm tài sản bảo đảm.
·
Trái
phiếu không bảo đảm: Là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm vật bảo đảm mà
chỉ bảo đảm bằng uy tín của người phát hành.
4.
Phân loại
dựa vào hình thức trái phiếu
·
Trái
phiếu vô danh:
Là loại trái phiếu không ghi tên của người mua và trong sổ sách của người phát
hành. Trái chủ là người được hưởng quyền lợi.
·
Trái
phiếu ghi danh:
Là loại trái phiếu có ghi tên của người mua và trong sổ sách của người phát
hành.
5.
Phân
loại dựa vào tính chất trái phiếu
·
Trái
phiếu có thể chuyển đổi: Là loại trái phiếu của công ty cổ phần mà trái chủ được quyền
chuyển sang cổ phiếu của công ty đó. Việc này được quy định cụ thể về thời gian
và tỷ lệ khi mua trái phiếu.
·
Trái
phiếu có quyền mua cổ phiếu: Là loại trái phiếu có kèm theo phiếu cho phép trái chủ được
quyền mua một số lượng nhất định cổ phiếu của công ty.
·
Trái
phiếu có thể mua lại: Là loại trái phiếu cho phép nhà phát hành được quyền mua lại một
phần hay toàn bộ trước khi trái phiếu đến hạn thanh toán.[2]
VẤN NẠN CHUYỂN
GIÁ
Chuyển giá được
hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được
chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị
trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia (Multi Nations
Company) trên toàn cầu.[1]
Như vậy, chuyển
giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị
trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có đối
tượng tác động chính là giá cả. Sở dĩ giá cả có thể xác định lại trong những
giao dịch như thế xuất phát từ ba lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ
quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định
giá cả của một giao dịch. Do đó họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch
vụ với giá họ mong muốn.
Thứ hai, xuất phát từ mối
quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác biệt về giá giao
dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh doanh có cùng lợi ích không làm thay
đổi lợi ích toàn cục.
Thứ ba, việc
quyết định chính sách giá giao dịch giữa các thành viên trong nhóm liên kết
không thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế
của họ. Thông qua việc định giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết
cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Tồn tại sự khác nhau về chính
sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do chính sách kinh tế - xã
hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các quy định ưu đãi
thuế là điều tất yếu. Chênh lệch mức độ điều tiết thuế vì thế hoàn toàn có thể
xảy ra.
Cho nên, chuyển
giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể có mối
quan hệ liên kết. Để làm điều này họ phải thiết lập một chính sách về giá mà ở
đó giá chuyển giao có thể được định ở mức cao
hay thấp tùy
vào lợi ích đạt được từ những giao dịch như thế. Chúng ta cần phân biệt điều
này với trường hợp khai giá giao dịch thấp đối với cơ quan quản lý để trốn thuế
nhưng đằng sau đó họ vẫn thực hiện thanh toán đầy đủ theo giá thỏa thuận. Trong
khi đó nếu giao dịch bị chuyển giá, họ sẽ không phải thực hiện vế sau của việc
thanh toán trên và thậm chí họ có thể định giá giao dịch cao. Các đối tượng này
nắm bắt và vận dụng được những quy định khác biệt về thuế giữa các quốc gia,
các ưu đãi trong quy định thuế để hưởng lợi có vẻ như hoàn toàn hợp pháp. Như
thế, vô hình trung, chuyển giá đã gây ra sự bất bình đẳng trong việc thực hiện
nghĩa vụ thuế do xác định không chính xác nghĩa vụ thuế, dẫn đến bất bình đẳng
về lợi ích, tạo ra sự cách biệt trong ưu thế cạnh tranh.
Tuy vậy, thật
không đơn giản để xác định một chủ thể đã thực hiện chuyển giá. Vấn đề ở chỗ, nếu
định giá cao hoặc thấp mà làm tăng số thu thuế một cách cục bộ cho một nhà nước
thì cơ quan có thẩm quyền nên định lại giá chuyển giao. Chẳng hạn, giá mua đầu
vào nếu được xác định thấp, điều đó có thể hình thành chi phí thấp và hệ quả là
thu nhập trước thuế sẽ cao, kéo theo thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế TNDN)
tăng; hoặc giả như giá xuất khẩu định cao cũng làm doanh thu tăng và kết quả là
cũng làm tăng số thuế mà nhà nước thu được. Nhưng cần hiểu rằng điều đó cũng có
nghĩa rằng nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp liên kết ở đầu kia có khả năng đã giảm
xuống do chuyển một phần nghĩa vụ của mình qua giá sang doanh nghiệp liên kết
này.
Hành vi này chỉ
có thể được thực hiện thông qua giao dịch của các chủ thể có quan hệ liên kết.
Biểu hiện cụ thể của hành vi là giao kết về giá. Nhưng giao kết về giá chưa đủ
để kết luận rằng chủ thể đã thực hiện hành vi chuyển giá. Bởi lẽ nếu giao kết
đó chưa thực hiện trên thực tế hoặc chưa có sự chuyển dịch quyền đối với đối tượng
giao dịch thì không có cơ sở để xác định sự chuyển dịch về mặt lợi ích. Như vậy,
ta có thể xem chuyển giá hoàn thành khi có sự chuyển giao đối tượng giao dịch
cho dù đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán hay chưa.
Giá giao kết là
cơ sở để xem xét hành vi chuyển giá. Chúng ta cũng chỉ có thể đánh giá một giao
dịch có chuyển giá hay không khi so sánh giá giao kết với giá thị trường. Nếu
giá giao kết không tương ứng với giá thị trường thì có nhiều khả năng để kết luận
rằng giao dịch này có biểu hiện chuyển giá.
3. Phạm vi chuyển giá
Chuyển giá với ý
nghĩa chuyển giao giá trị trong quan hệ nội bộ nên hành vi phải được xem xét
trong phạm vi giao dịch của các chủ thể liên kết. Điều 9 Công ước mẫu của OECD
về định giá chuyển giao ghi nhận “Hai doanh nghiệp được xem là liên kết
(associated enterprises) khi:
i. Một doanh
nghiệp tham gia vào quản lý, điều hành hay góp vốn vào doanh nghiệp kia một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc qua trung gian;
ii. Hai doanh
nghiệp có cùng một hoặc nhiều người hay những thực thể (entities) khác tham gia
quản lý, điều hành hay góp vốn một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc thông qua
trung gian”.
Yếu tố quản lý,
điều hành hay góp vốn chính là điều kiện quyết định sự ảnh hưởng, sự giao hòa về
mặt lợi ích của các chủ thể này nên cũng là cơ sở để xác định mối quan hệ liên
kết. Tính chất của những biểu hiện này không mang tính quyết định. Như thế các
doanh nghiệp liên kết có thể được hình thành trong cùng một quốc gia hoặc có thể
ở nhiều quốc gia khác nhau. Từ đó, chuyển giá không chỉ diễn ra trong các giao
dịch quốc tế mà có thể cả trong những giao dịch quốc nội.
Trên thực tế,
chuyển giá thường được quan tâm đánh giá đối với các giao dịch quốc tế hơn do sự
khác biệt về chính sách thuế giữa các quốc gia được thể hiện rõ hơn. Trong khi
đó, do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia nên các nghĩa vụ thuế hình
thành từ các giao dịch trong nước ít có sự cách biệt. Vì thế, phần lớn các quốc
gia hiện nay thường chỉ quy định về chuyển giá đối với giao dịch quốc tế.[2] Theo đó, giao dịch quốc tế được xác định
là giao dịch giữa hai hay nhiều doanh nghiệp liên kết mà trong số đó có đối tượng
tham gia là chủ thể không cư trú (non-residents).[3] Sự khác biệt chính yếu nằm ở sự cách
biệt về mức thuế suất thuế TNDN của các quốc gia. Một giá trị lợi nhuận chuyển
qua giá từ doanh nghiệp liên kết cư trú tại quốc gia có thuế suất cao sang
doanh nghiệp liên kết ở quốc gia có thuế suất thấp. Ngược lại một lượng chi phí
tăng lên qua giá mua sẽ làm giảm thu nhập cục bộ ở quốc gia có thuế suất thuế
thu nhập cao. Trong hai trường hợp đều cho ra những kết quả tương tự là làm tổng
thu nhập sau thuế của toàn bộ nhóm liên kết tăng lên.
Khía cạnh khác,
các giao dịch trong nước có thể hưởng lợi từ chế độ ưu đãi, miễn giảm thuế. Thu
nhập sẽ lại dịch chuyển từ doanh nghiệp liên kết không được hưởng ưu đãi hoặc
ưu đãi với tỉ lệ thấp hơn sang doanh nghiệp liên kết có lợi thế hơn về điều
này.
4. Biện pháp chống chuyển giá
ở Việt Nam
4.1. Chuyển giá
đã được các nhà hoạch định chính sách tài chính Việt Nam xác định là một vấn đề
cần được quan tâm quản lý khi mà ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu chuyển giá
trong giao dịch có yếu tố nước ngoài.[4] Văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến
chuyển giá là Thông tư 74/1997/TT-BTC hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước
ngoài, sau đó là Thông tư 89/1999/TT-BTC và Thông tư 13/2001/TT-BTC. Đến Thông
tư 05/2005/TT-BTC hướng dẫn về thuế nhà thầu thì vấn đề này được bỏ ra khỏi nội
dung điều chỉnh. Cho đến 19/12/2005, chuyển giá đã được nhắc lại tại Thông tư
117/2005/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn việc thực hiện xác định giá
thị trường trong các giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết.
Tính đến nay, Thông tư 117/2005/TT-BTC có thể được xem là văn bản pháp lý điều
chỉnh một cách khá chi tiết về biện pháp chống chuyển giá bằng phương pháp định
giá chuyển giao. Ý nghĩa của việc định giá chuyển giao là xác định lại giá giao
dịch giữa các doanh nghiệp liên kết nhằm đưa giá giao dịch liên kết về đúng với
giá thị trường.
4.2. Đối tượng áp dụng phương pháp định giá chuyển giao là
tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thực hiện một phần hoặc
toàn bộ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam có giao dịch kinh doanh với các bên
có quan hệ liên kết có nghĩa vụ kê khai, xác định nghĩa vụ thuế TNDN ở Việt
nam. Phạm vi áp dụng bao gồm các giao dịch mua, bán, trao đổi, thuê, cho thuê,
chuyển giao hoặc chuyển nhượng hàng hóa, dịch vụ trong quá trình kinh doanh giữa
các bên có quan hệ liên kết.[5] Nội hàm tác động của những quy định
này dường như cũng không giới hạn điều chỉnh trong các giao dịch chuyển giá quốc
tế. Các giao dịch liên kết bị điều chỉnh cũng tương tự quy định của các nước hoặc
theo Công ước mẫu của OEDC về định giá chuyển giao[6]. Nhưng phạm vi giao dịch chuyển giá mà Việt
Nam điều chỉnh có phần hẹp hơn vì không đề cập đến những giao dịch như vay hoặc
cho vay, hay như giao dịch được đề cập mở rộng mang tính dự báo mà có thể gây
tác động đến lợi ích của doanh nghiệp liên kết.
4.3. Để xác định giá thị trường phải tuân thủ nguyên tắc dựa
trên cơ sở so sánh tính tương đương giữa giao dịch liên kết với giao dịch độc lập[7] từ đó lựa chọn ra phương pháp xác định
giá phù hợp. Theo đó, dù là sử dụng phương pháp nào thì việc so sánh cũng phải
đưa giao dịch độc lập làm cơ sở quy chiếu về điều kiện tương đương với giao dịch
liên kết. Do đó các giao dịch tương đối dùng để so sánh có thể không hoàn toàn
giống giao dịch liên kết nhưng phải đảm bảo là không có các khác biệt trọng yếu.
Trường hợp có khác biệt trọng yếu, việc so sánh phải dùng biện pháp phân tích
và đánh giá các tiêu thức ảnh hưởng dẫn đến khác biệt nhằm loại trừ sự khác biệt
mang lại sự tương đồng.[8] Có 4 tiêu thức được xem là những yếu
tố có thể gây ra sự khác biệt, đó là đặc tính của sản phẩm, chức năng hoạt động
của cơ sở kinh doanh, điều kiện của hợp đồng giao dịch và điều kiện kinh tế khi
diễn ra giao dịch.
4.4. Quá trình
phân tính, đánh giá sẽ chỉ ra phương thức xác định giá thị trường nào là phù hợp
nhất. Khác với các quy định trước đây, chỉ có 3 phương pháp được áp dụng, không
đủ để bao quát hết các khả năng phải xác định giá, trong lần quy định này,
thông tư 117/2005/TT-BTC đã đưa ra 5
phương pháp định giá chuyển giao. Đó là:
- Phương pháp so sánh giá giao dịch độc
lập:
dựa vào đơn giá sản phẩm được vận dụng trong trường hợp giao dịch độc lập có điều
kiện tương đương với giao dịch liên kết.
- Phương pháp giá bán lại: áp dụng
trong trường hợp không có giao dịch mua tương đương, thuộc khâu cung ứng hoặc
có thêm giai đoạn gia công, chế biến, lắp ráp... làm gia tăng giá trị hàng hóa,
nên phải sử dụng giá bán lại của sản phẩm do cơ sở kinh doanh bán cho bên độc lập
để xác định giá mua vào của giao dịch liên kết.
- Phương pháp giá vốn cộng lãi: được
lựa chọn khi giao dịch liên kết thuộc khâu sản xuất khép kín để bán cho bên
liên kết hoặc cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra cho bên liên kết. Phương pháp
này xác định giá dựa vào giá vốn hay giá thành của sản phẩm để xác định giá bán
ra của sản phẩm đó cho bên liên kết.
- Phương pháp so sánh lợi nhuận: để thực
hiện phương pháp này phải dựa trên tỷ suất sinh lời của sản phẩm trong giao dịch
độc lập được chọn. Phương pháp này không cho ra kết quả về giá mà tính ra được
thu nhập thuần trước thuế là cơ sở tính thuế TNDN. Đây được xem là phương pháp
mở rộng của phương pháp giá bán lại và giá vốn cộng lãi, nên có thể áp dụng đối
chiếu trong trường hợp có những điều kiện tương tự.
- Phương pháp tách lợi nhuận: được
áp dụng trong trường hợp nhiều bên liên kết cùng thực hiện một giao dịch liên kết
tổng hợp[9], chẳng hạn như cùng tham gia nghiên cứu
phát triển sản phẩm mới, hoặc sản phẩm là tài sản vô hình độc quyền, kinh doanh
chuyển tiếp từ khâu đầu đến khâu cuối gắn với quyền sở hữu trí tuệ. Việc tách lợi
nhuận của từng bên liên kết trong giao dịch dựa trên cách mà các bên độc lập thực
hiện phân chia lợi nhuận trong các giao dịch độc lập tương đương. Trường hợp do tính đặc thù hoặc duy nhất của
giao dịch liên kết mà không có có giao dịch độc lập tương đương để chọn một
trong các phương pháp trên so sánh thì có thể sử dụng biện pháp tổng hợp (như mở
rộng phạm vi lựa chọn sang phân ngành khác, xác định biên độ giá thị trường
thích hợp bằng các phương pháp tổng hợp...) hoặc vận dụng các số liệu giữa kỳ
(để tính mức giá sản phẩm, tỷ suất lợi nhuận...).
4.5. Mục đích của định giá chuyển giao là
tìm sự khác biệt trong việc hình thành nghĩa vụ thuế giữa giá giao dịch liên kết
và giao dịch độc lập. Do đó, quá trình so sánh cho phép chủ thể có giao dịch
liên kết lựa chọn giá trị phù hợp nhất[10] trong các giá trị tương ứng của biên
độ giá thị trường chuẩn[11] để làm căn cứ điều chỉnh giá của giao
dịch liên kết. Theo quy định tại đoạn 1.1 điểm 1, Mục 2, phần B,
TT117/2005/TT-BTC, trường hợp giá sản phẩm trong giao dịch liên kết không thấp hơn giá
trị phù hợp nhất thì chủ thể kinh doanh không cần điều chỉnh. Điều này đồng
nghĩa với việc cho ra kết quả giá của giao dịch liên kết nằm ở đầu vào hay đầu
ra trong quá trình kinh doanh của bên liên kết có nghĩa vụ thuế nếu đã được định
cao hơn giá trị phù hợp là được chấp thuận. Như thế định giá chuyển giao sẽ
không còn ý nghĩa nếu xác định giá đầu vào cao hơn so với giá thị trường, bởi
thu nhập chịu thuế sẽ bị giảm do chi phí đầu vào định giá tăng lên. Ngược lại nếu
giá trị đầu ra được xác định là cao hơn giá thị trường và không cần điều chỉnh,
thì như đã phân tích ở trên nếu xét một cách cục bộ, nghĩa vụ thuế TNDN ở bên
liên kết này có thể tăng lên nhưng nghĩa vụ thuế của bên cùng giao dịch sẽ giảm
đi đáng kể. Đó là chưa kể đến những ảnh hưởng khác như vấn đề quản lý về chuyển
tiền khi thanh toán, chuyển vốn, chia lãi qua chuyển giá. Vậy nên chăng, một
khi chúng ta đã thực hiện biện pháp định giá chuyển giao, thì mọi giao dịch
liên kết có giá cao hay thấp hơn giá thị trường đều được đưa về mức chuẩn là
giá thị trường phù hợp đã được định ra trong quá trình sử dụng phương pháp so
sánh.
4.6. Áp dụng các
biện pháp so sánh giá thị trường được xem là nghĩa
vụ bắt buộc của đối tượng nộp thuế TNDN khi
thực hiện các giao dịch liên kết. Chủ thể này có nghĩa vụ kê khai các giao dịch
liên kết đã thực hiện và phương pháp so sánh giá đã áp dụng khi khai báo thuế
TNDN. Cơ chế này được thực hiện sẽ làm giảm khả năng không kiểm soát được các
giao dịch liên kết gây khó khăn cho chủ thể quản lý. Như các quy định trước
đây, định giá chuyển giao chỉ có thể được áp dụng khi cán bộ chuyên quản thuế
kiểm tra phát hiện có hiện tượng chuyển giá. Nhưng để phát hiện có chuyển giá
hay không lại phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng và yếu tố chủ quan của chính người
quản lý. Trao nghĩa vụ kê khai các giao dịch liên kết cho đối tượng nộp thuế vừa
giảm thiểu chi phí quản lý, vừa tăng quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm với
những thông tin mà đối tượng nộp thuế cung cấp. Điều này được xem là phù hợp với
xu thế quản lý thuế hiện đại (tự kê khai, tự nộp). Bởi lẽ khi ấy, đối tượng nộp
thuế sẽ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý nếu không đảm bảo thực hiện đúng
nghĩa vụ này. Bên cạnh đó, họ cũng có quyền được bảo vệ bí mật về thông tin đã
cung cấp trong quá trình xác định giá. Tuy vậy cơ chế bảo mật thông tin trong
trường hợp này chưa được nhà nước quan tâm điều chỉnh cụ thể, vì thế sẽ không
thể biết rằng một khi thông tin nội bộ của họ (như bí mật công nghệ, giải pháp
kỹ thuật...) bị rò rỉ gây thiệt hại cho đối tượng nộp thuế thì trách nhiệm của
cơ quan quản lý sẽ ra sao, mức bồi thường như thế nào? Câu hỏi này chưa có lời
đáp rõ ràng.
4.7. Các biện pháp cưỡng chế cũng
được áp dụng nhằm đảm bảo tuân thủ kê khai đúng đắn các giao dịch liên kết. Trước
hết, đó là quy định về quyền của cơ quan thuế được ấn định mức giá sử dụng để kê khai tính thuế
hoặc ấn định thu nhập chịu thuế hay số thuế thu nhập phải nộp. Việc ấn định dựa
trên cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế phù hợp quy định về ấn định thuế hoặc theo
giá trị không thấp hơn giá trị trung bình của biên độ giá thị trường chuẩn được
cơ quan thuế ấn định. Cơ chế ấn định giá trong trường hợp này chưa được quy định
rõ vì tiêu chuẩn lựa chọn để định giá nào sẽ được xem là phù hợp một khi những
thông tin mà đối tượng nộp thuế cung cấp được xem là giả mạo, hoặc không có
giao dịch độc lập tương tự để so sánh. Từ đây có thể xảy ra việc cơ quan quản
lý có thể tùy nghi vận dụng. Chẳng hạn quy định tại đoạn 2.2 điểm 2, Mục 2, Phần
C, TT117/2005/TT-BTC đề cập về sự “nghi ngờ”
của cơ quan thuế liên quan đến tính trung thực của đối tượng nộp thuế dẫn đến
việc chủ thể này phải có nghĩa vụ chứng minh. Nhưng cơ sở của sự nghi ngờ này
là gì thì không rõ. Vì thế đối tượng nộp thuế sẽ rất khó chứng minh nghĩa vụ của
mình, nhưng lại rất dễ để cơ quan quản lý làm khó đối tượng nộp thuế vì tự thân
sự nghi ngờ hoàn toàn có thể xuất phát cảm tính của chủ thể quản lý. Ngoài điều
này ra, pháp luật còn cho phép áp dụng các trách nhiệm pháp lý khác để xử lý vi
phạm đối với hoạt động xác định giá thị trường. Những hành vi vi phạm này có lẽ
phù hợp nhất nếu được xem là vi phạm pháp luật thuế vì mục đích cuối cùng là
thay đổi nghĩa vụ thuế, nhưng cũng sẽ không đơn giản để phân tách thời điểm vi
phạm để xếp hành vi vi phạm chuyển giá vào nhóm vi phạm nào?
4.8. Biện pháp định
giá chuyển giao theo cách thức điều chỉnh hiện nay chỉ có ý nghĩa trong việc
xác định thu nhập chịu thuế, chính xác hơn là
xác định đúng nghĩa vụ thuế TNDN. Thế nhưng điều đó cũng có nghĩa
là đưa giao dịch liên kết về giao dịch thị trường, nên kết quả này cũng có những
ý nghĩa pháp lý nhất định trong việc xác định các nghĩa vụ thuế khác như thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt nếu
có. Kết quả này là biểu thị giá của giao dịch bán ra hoặc giao dịch mua vào cho
nên giá tính thuế của các loại thuế gián thu nếu căn cứ vào đây có thể sẽ khác
đi vì được định giá lại.
5. Lời kết
Việc ban hành
TT117/2005/TT-BTC cho thấy những động thái tích cực của Nhà nước trong việc nhận
biết, điều phối những hiện tượng mới mẻ phát sinh trong nền kinh tế đang không
ngừng biến chuyển với sự du nhập của trào lưu kinh doanh mang tính phối hợp, cộng
tác, phương thức hạch toán, quản lý ngày càng đa dạng và phức tạp. Chuyển giá
cũng xuất hiện từ những làn sóng lợi ích ấy. Thế nhưng TT117/2005/TT-BTC mới chỉ
có thể là những viên gạch đầu tiên vỡ vạc một cơ sở pháp lý điều chỉnh về một
quan hệ xã hội - ở đó có những giằng kéo về mặt lợi ích giữa Nhà nước và đối tượng
nộp thuế, xa hơn là lợi ích của cả một cộng đồng. Thật đơn giản để thấy rằng lồng
ghép trong những quan hệ kinh tế chằng chịt ấy cũng là vấn đề lợi ích, nhưng
bóc gỡ nó ra để tìm thấy sự bình đẳng về quyền lợi thì lại không đơn giản chút
nào. Bước đầu, nội dung các quy định này không thể tránh khỏi sự phức tạp, khó
hiểu, các vấn đề pháp lý được đặt ra còn nhiều điều phải bàn cãi - như tính cưỡng
chế chưa cao, căn cứ để cơ quan thuế áp giá chưa rõ ràng. Các chủ thể nằm trong
đối tượng bị điều chỉnh của văn bản này, cũng như bộ phận chuyên quản thuế sẽ
không dễ để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Điều này dự báo khả năng
áp dụng biện pháp định giá chuyển giao của Việt Nam trên thực tiễn sẽ khó khăn.
Tất cả đang cần
có một cái nhìn đầy đủ hơn về chuyển giá, về phạm vi tác động của giá thị trường
được định ra trong các phương pháp xác định giá để từ đó chuyển các giao dịch
liên kết về đúng với bản chất tự nhiên của nó là một giao dịch bình đẳng. Ở đây
là một sự bình đẳng theo đúng nghĩa thị trường không vì lợi ích cục bộ của
riêng một chủ thể nào. Làm được điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của Nhà nước
mà tính đến lợi ích của những chủ thể khác nhằm duy trì một môi trường cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng trong xã hội có nhiều quan hệ đa chiều như hiện nay.
ĐÌNH CÔNG
1. Đình công - biểu hiện của sự bế
tắc trong quan hệ lao động.
Hiện nay, đình
công đang là một trong những vấn đề nóng bỏng và là một hiện tượng quan hệ lao
động tự nhiên trong nền kinh tế thị trường. Nó biểu hiện một sự bế tắc trong
quan hệ lao động, khi có sự xung đột về quyền và lợi ích giữa người lao động và
người sử dụng lao động mà sự xung đột này không được giải quyết kịp thời.
Bản chất của đình công thường thay đổi và phát triển cùng với sự phát triển của
xã hội trong các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển. Việt Nam là quốc
gia đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, pháp luật lao động
chưa đạt được mức độ chặt chẽ cần thiết và đang trong quá trình hoàn thiện,
hoạt động của hệ thống thanh tra lao động tuy có những tiến bộ rõ rệt trong
thời gian qua song tính hiệu quả của nó vẫn chưa được như mong muốn nên việc bế
tắc trong quan hệ lao động dẫn đến đình công gần như là một vấn đề hiển nhiên,
mang tính quy luật chung của nền kinh tế thị trường.
2. Thực trạng
và nguyên nhân của đình công ở Việt Nam.
Tranh chấp lao
động, đình công hiện đang là điểm nóng của trong quan hệ lao động của các doanh
nghiệp. Theo số liệu thống kê, từ khi Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành đến
hết năm 2009, cả nước đã xảy ra 2863 cuộc đình công[1], bình quân 190,8 cuộc/năm.
Số các vụ đình công diễn ra theo xu thế tăng dần trong suốt giai đoạn từ 1995
(chỉ có 50 vụ) đến đỉnh điểm là năm 2008 (652 vụ), sau đó giảm mạnh vào năm
2009 (chỉ 216 vụ). Tuy nhiên, đến năm 2010, số các vụ đình công tiếp tục gia
tăng. Theo số liệu của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, chỉ riêng 6
tháng đầu năm 2010 đã có trên 200 vụ đình công trên phạm vi cả nước.
Trong số các
cuộc đình công được đề cập trên, có 70,5% số cuộc xảy ra ở các doanh nghiệp
FDI; 24,8% ở các doanh nghiệp dân doanh và 4,6% ở các doanh nghiệp nhà nước.
Theo chúng tôi, sở dĩ đình công ở khu vực FDI cao hơn hẳn so với các khu vực
khác là do một số nguyên nhân sau:
Một là, do các doanh nghiệp FDI trả lương quá
thấp. Theo số liệu điều tra do tác giả tiến hành năm 2008, tiền lương bình quân
của công nhân trong các DN FDI thấp nhất, chỉ bằng khoảng 75% so với các doanh
nghiệp dân doanh và 60% so với các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó điều
kiện lao động và cường độ làm việc lại quá hà khắc. Điều đó dẫn đến sự bất bình
và là nguyên nhân dẫn đến đình công.
Hai là, do sự khác biệt về văn hoá
và hành vi công nghiệp trong các DN FDI. Sự khác biệt về hành vi ứng xử có thể
gây nên sự thiếu hiểu biết lẫn nhau, làm cho quan hệ chủ thợ trở nên căng
thẳng. Hơn nữa, sự căng thẳng này lại không được giải toả kịp thời do thiếu sự
đối thoại cần thiết giữa chủ và thợ, giữa quản lý và nhân viên dẫn đến sự bùng
phát mâu thuẫn và hệ quả tất yếu của nó là đình công.
Ba là, do cung cách quản lý. Người nước ngoài quen với cách quản lý đòi
hỏi tác phong làm việc công nghiệp, trong khi đó người Việt lại không quen với
cung cách này. Điều đó sẽ tạo nên mâu thuẫn và việc thiếu cơ hội giải toả mâu
thuẫn thông qua đối thoại và thương lượng có thể làm cho mâu thuẫn bùng phát.
Bốn là, do hệ thống thanh kiểm tra hoạt động chưa hiệu quả. Hoạt động
của hệ thống thanh tra lao động chưa bao phủ hết được các doanh nghiệp không
thuộc sở hữu nhà nước dẫn đến hiện tượng không hiểu luật, vi phạm pháp luật lao
động ở các doanh nghiệp này khá phổ biến. Sự vi phạm đó là “mầm mống” làm phát
sinh mâu thuẫn, nhiều khi dẫn đến đình công.
Xét về đặc điểm
của các vụ đình công xảy ra ở Việt Nam, có thể thấy rõ một đặc điểm nổi trội là tính tự phát của đình công rất
cao. Kết quả thống kê cho thấy phần lớn các cuộc đình công từ 2004 trở
lại đây đều là đình công tự phát. Nói cách khác, các cuộc đình công này xảy ra
không tuân thủ khung khổ pháp lý về tranh chấp lao động tập thể và không có sự
tham gia của công đoàn.
Một đặc điểm rất
đáng lưu ý khác là mặc dù đình công tự phát song các cuộc đình công này đều
được tổ chức tốt và tính đoàn kết của công nhân rất cao trong suốt quá trình
đình công. Các báo cáo về diễn biến các cuộc đình công đều cho thấy trong các
cuộc đình công, ban đầu chỉ có sự tham gia của một nhóm nhỏ, sau đó toàn bộ
công nhân sẽ cùng đình công gây nên sức ép rất lớn cho giới chủ.
Nghiên cứu sâu
hơn, có thể thấy nguyên nhân của các tranh chấp này trong các giai đoạn khác
nhau có những điểm khác nhau. Nguyên nhân nảy sinh nhiều cuộc đình công vào
những năm 90 của thế kỷ 20 chủ yếu là do “sự
khác biệt về văn hoá” và
một số vụ đánh đập, xúc phạm công nhân của người quản lý nước ngoài. Số liệu
của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho thấy có khoảng 50% số vụ đình công
trong khu vực FDI trước năm 2001 đã xảy ra bởi nguyên nhân đánh đập, xúc phạm
của người quản lý nước ngoài đối với công nhân Việt Nam. Tuy nhiên, từ năm 2001
cho đến nay, số vụ đình công xảy ra do nguyên nhân trên đã giảm đáng kể và lý do kinh tế và lý do việc làm
hiện nay đã và đang trở thành lý do chủ yếu. Những nghiên cứu của ILO[1] đã cho thấy
rằng, sở dĩ tỷ lệ các vụ đình công cao ở khu vực FDI là do cường độ làm việc
của người lao động cao hơn, trong khi đó mức lương nhận được lại thấp. Hơn nữa,
người lao động cho rằng, họ có sự ủng hộ của nhà nước và nếu đình công thành
công, họ sẽ nhận được nhiều quyền lợi; nếu thất bại, họ sẽ vẫn có nhiều cơ hội
có việc làm do tình trạng khan hiếm công nhân hiện nay. Riêng năm 2009, số vụ
đình công chỉ bằng 70% so với 2008, lý do đình công ít vẫn chủ yếu là lý do
việc làm và thu nhập bởi tác động của khủng hoảng kinh tế.
Các cuộc đình
công có xu hướng gia tăng năm sau cao hơn năm trước và có gần 90% số cuộc
đình công có nội dung yêu cầu DN phải đảm bảo quyền và lợi ích về tiền lương,
tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, thời giờ làm việc và nghỉ ngơi, ký kết hợp đồng
lao động. Trong khi đó, hầu hết các vụ đình công trong khu vực nhà nước đều
xoay quanh vấn đề chậm trả lương hoặc không trả lương; giảm biên chế và trợ cấp
thôi việc. Theo kết quả nghiên cứu thực địa về nguyên nhân xảy ra đình công của
nhóm chuyên gia ILO vào tháng 11/2004[2]với số mẫu nghiên cứu là 100 vụ đình công và kết quả thu thập
thông tin từ các nguồn khác, trong giai đoạn 2002 – 2004, có tới 1/3 số vụ đình
công xuất phát từ vấn đề trả lương thấp (thường là doanh nghiệp không thể tăng
lương như đã hứa với công nhân); 1/4 số vụ đình công liên quan đến yêu cầu tăng
tiền thưởng (thường do nguyên nhân doanh nghiệp không trả được mức thưởng như
đã thoả thuận); 1/4 số vụ liên quan đến thời giờ làm việc (trả lương làm thêm
quá thấp); 1/5 số vụ đòi hỏi phải trả hết khoản lương còn nợ cho công nhân; 1/6
số vụ xảy ra là do doanh nghiệp không trả lương làm thêm; 1/6 số vụ xảy ra do
công nhân không được nhận hợp đồng lao động; 1/8 số vụ là do người sử dụng lao
động không đóng bảo hiểm xã hội và 1/8 số vụ đình công xảy ra là do người sử
dụng lao động áp dụng các biện pháp phạt trái với quy định của luật cho công
nhân.
Một nguyên nhân khác cần phải đề cập đến là việc thiếu vắng hoặc hoạt động thiếu
hiệu quả của các tổ chức công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp có
xảy ra đình công. Theo số liệu của Quốc hội Việt Nam[3], trong số 614 cuộc đình công xảy ra trong
5 năm 2000 – 2004, có 331 cuộc đình công xảy ra ở các doanh nghiệp có công
đoàn. Điều đáng lưu ý là tất cả các cuộc đình công này đều là tự phát.
Công tác quản lý nhà nước
còn nhiều yếu kém, điển hình là việc cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Ban Quản lý các khu chế xuất,
khu công nghiệp) không làm tốt công tác nắm tình hình, phát hiện và xử lý kịp
thời những vấn đề thuộc thẩm quyền. Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện chưa
tốt, để một số doanh nghiệp vi phạm chính sách, điều kiện lao động trong một
thời gian dài không được phát hiện, xử lý, gây tích tụ mâu thuẫn giữa người lao
động và người sử dụng lao động; không kịp thời kiến nghị các cơ quan chức năng
sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tế. Trong khi đó,
hiểu biết và nhận thức của người lao động về các quy định của pháp luật lao
động còn rất hạn chế, thu nhập của người lao động phần đông còn thấp và không
ổn định.
3. Một số
giải pháp thúc đẩy quan hệ lao động lành mạnh và hạn chế đình công ở Việt Nam.
Để hạn chế tranh chấp lao động và đình công ở Việt Nam, góp phần thúc đẩy quan
hệ lao động lành mạnh, theo chúng tôi, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp:
Một là, cần kiện toàn các tổ chức làm công tác
trọng tài và hoà giải và nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức này.
Trước mắt, cần nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức trên thông qua việc
đào tạo và huấn luyện cán bộ làm công tác hoà giải, trọng tài. Song song với
giải pháp này, các tổ chức hoà giải nên chủ động thiết lập một mạng lưới cung
cấp thông tin về tranh chấp lao động với các doanh nghiệp, các khu công nghiệp,
khu chế xuất và chủ động liên hệ với các doanh nghiệp để tiến hành hoà giải, tư
vấn cho doanh nghiệp mời sự tham gia của trọng tài lao động khi hoà giải không
thành.
Cần tạo cơ chế
khuyến khích cho việc thành lập các tổ chức hoà giải, trọng tài độc lập như một
số quốc gia trong khu vực và thế giới vẫn thực hiện. Theo chúng tôi, nên tập
trung đầu tư trọng điểm vào công tác hoà giải bởi hoạt động hoà giải này có thể
góp phần chấm dứt tranh chấp lao động ngay từ khi nó mới phát sinh, qua đó giảm
thiệt hại tối đa cho cả người lao động và cho doanh nghiệp.
Hai là, cần tiếp tục hoàn thiện quy định về tổ
chức công đoàn cơ sở và tăng cường hoạt động của tổ chức này. Cần xác định:
§
Việc tham
gia công đoàn của công nhân là hoàn toàn tự nguyện, những người tham gia công
đoàn buộc phải đóng công đoàn phí;
§
Việc bầu
Ban Chấp hành công đoàn cơ sở phải dựa trên tín nhiệm thực sự của công nhân,
khuyến khích công nhân bầu những người thực sự có uy tín và nhiệt huyết để họ
lựa chọn được “thủ lĩnh” thật sự làm Chủ tịch công đoàn cơ sở. Không kết nạp
những người giữ vị trí quản lý (cấp trưởng phòng trở lên) vào Công đoàn đối với
các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước vì thực chất, họ là những người
đại diện cho giới chủ;
§
Ban Chấp
hành công đoàn cơ sở, đặc biệt là Chủ tịch công đoàn cần được cấp phí hoạt động
công đoàn theo nguồn trích từ công đoàn phí của công đoàn viên để khuyến khích
sự hoạt động của họ.
Ba là, cần thúc đẩy hoạt động đối
thoại xã hội trong doanh nghiệp giữa người sử dụng lao động và người lao động,
giữa nhà quản lý và nhân viên. Hoạt động đối thoại này nên được tiến hành hàng
tháng hoặc hàng quý để giải quyết ngay các mâu thuẫn giữa chủ và thợ ngay từ
khi các mâu thuẫn mới phát sinh. Việc quy định các hoạt động đối thoại này có
thể do Chính phủ tiến hành hoặc văn bản hoá trong Điều lệ hoạt động của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam, Hiệp hội
các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bốn là, VCCI nên tổ chức các lớp tập huấn phổ biến về văn hoá Việt Nam
và Luật lao động Việt Nam cho người nước ngoài làm quản lý ở các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, phía các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài nên tổ chức giới thiệu văn hoá của nước bỏ vốn đầu tư cho cán bộ và công
nhân Việt Nam làm việc ở doanh nghiệp đó. Có thể ban hành quy định ở cấp quốc
gia về vấn đề này.
Thông qua hoạt
động giới thiệu văn hoá nói trên, có thể hạn chế được những tranh chấp lao động
xuất phát từ sự khác biệt về văn hoá.
Năm là, cần tiếp tục nâng cao năng
lực hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước.
Chúng tôi đề
nghị cần tiến hành định biên lại và tăng biên chế cho thanh tra lao động, ban
hành tiêu chuẩn thanh tra viên và tăng cường đào tạo nghiệp vụ cho thanh tra
viên lao động. Theo chúng tôi, nên thiết lập một chương trình đào tạo thanh tra
viên lao động với thời gian đào tạo khoảng 1 – 2 năm dành cho việc đào tạo
thanh tra viên mới. Những thanh tra viên tập sự phải kết thúc chương trình đào
tạo này mới được cấp Thẻ thanh tra viên và được phép tiến hành thanh tra độc
lập.
Nên có quy định
về sự tham gia của thanh tra lao động trong quá trình giải quyết đình công.
Đối với các cơ quan quản lý nhà
nước trực tiếp của các doanh nghiệp FDI (Ban Quản lý các khu chế xuất, khu công
nghiệp), cần thiết lập bộ phận theo dõi, nắm bắt tình hình và diễn biến của các
tranh chấp lao động diễn ra tại các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý để ngăn
chặn kịp thời sự bùng nổ các tranh chấp có thể dẫn tới đình công./.
Cơ sở hình thành hoạt động kinh doanh
quốc tế:
Có nhiều mục đích và động cơ thúc đẩy
các doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Trong đó có 3 động cơ chính là mở rộng cung ứng, tiêu thụ hàng hoá, tìm kiếm
các nguồn lực ở nước ngoài, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh.
a. Mở rộng phạm vi thị trường
kinh doanh
Số lượng hàng hoá và trị giá hàng hoá (doanh
số) được cung ứng và tiêu thụ tuỳ thuộc vào số người quan tâm đến sản phẩm
hay dịch vụ của doanh nghiệp. Thị trường nội địa luôn bị giới hạn về sức mua,
về nhu cầu. Nếu doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh ở thị trường nước
ngoài sẽ khắc phục được sự chật hẹp của thị trường nội địa do số lượng khách
hàng, sức mua và khả năng cung ứng của khách hàng trên thị trường thế giới luôn
lớn hơn thị trường ở từng quốc gia. Nếu doanh nghiệp luôn mở rộng hoạt động
kinh doanh ra nhiều khu vực thị trường khác nhau sẽ cho phép doanh nghiệp nâng
cao doanh số kinh doanh của mình.
Việc vươn ra thị trường nước ngoài, mở
rộng phạm vi tiêu thụ hàng hoá còn có tác dụng giúp cho các doanh nghiệp
mở rộng khối lượng cung ứng hoặc tiêu thụ, từ đó sẽ tạo điều kiện cho doanh
nghiệp thu được lợi nhuận cao hơn. Vì vậy, chính việc mở rộng cung ứng hoặc
tiêu thụ là một động cơ chủ yếu đối với một doanh nghiệp khi tham gia thực hiện
hoạt động kinh doanh quốc tế. Mặt khác, khi phải đứng trước một thị trường nội
địa đã bão hoà, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế bắt đầu tìm kiếm các thị
trường nước ngoài. Tuy nhiên, khi mở ra những thị trường mới, các tổ chức kinh
doanh quốc tế lại chịu áp lực phải tăng doanh số bán và lợi nhuận cho tổ chức
của mình. Họ thấy rằng sự gia tăng thu nhập quốc dân đầu người và sự tăng
trưởng dân số của các quốc gia đã tạo ra những thị trường đầy hứa hẹn cho hoạt
động của họ.
b. Tìm kiếm các nguồn lực
nước ngoài
Đối với mỗi quốc gia, các nguồn tiềm
năng sẵn có không phải là vô hạn mà chỉ có giới hạn.
Do vậy, để có thêm nguồn lực mới, buộc
các doanh nghiệp phải vươn tới các nguồn lực ở bên ngoài. Các nguồn lực ở nước
ngoài như: nhân công dồi dào và giá rẻ, thị trường tiêu thụ rộng lớn và đa
dạng, nguyên vật liệu phong phú,... Đây là những nguồn lợi lớn mà các doanh
nghiệp đang hướng tới nhằm giảm chi phí, tăng lợi nhuận, ngày nay nhiều nhà sản
xuất, nhà phân phối cố gắng tiến hành sản xuất hay lắp ráp sản phẩm ngay ở nước
ngoài và tiêu thụ ngay tại đó, tức là áp dụng rộng rãi hình thức xuất khẩu tại
chỗ.
c. Mở rộng và đa dạng hoá
hoạt động kinh doanh
Các doanh nghiệp thường mong muốn làm
thế nào tránh được sự biến động thất thường của doanh số mua, bán và lợi nhuận.
Cho nên, họ đã nhận thấy rằng thị trường nước ngoài và việc mua bán hàng hoá ở
đó như là một biện pháp quan trọng giúp họ tránh được những đột biến xấu trong
kinh doanh. Chính việc đa dạng hoá hình thức và phạm vi kinh doanh sẽ giúp
doanh nghiệp khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực trong khuôn khổ
một quốc gia. Đa dạng hoá các hoạt động thương mại và đầu tư nước ngoài cho
phép doanh nghiệp khắc phục những rủi ro trong kinh doanh (phân tán rủi ro),
cho phép doanh nghiệp khai thác hiệu quả các lợi thế so sánh của mỗi quốc gia
trong hoạt động kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
NĂM
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CÔNG NGHIỆP
Thứ
nhất, tái hoạch định các chính sách và chiến lược công nghiệp, trung tâm là cần
một Bộ Luật Công nghiệp làm nền tảng pháp lý cho việc phát hành các văn bản quy
phạm liên quan đến phát triển công nghiệp. Cần đưa ra những gói chính sách cụ
thể cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp quốc doanh.
Thứ hai, đa dạng hóa các
ngành công nghiệp với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao: Ưu tiên tiểu ngành
và xúc tiến các hoạt động mới giàu tiềm năng nhằm phát triển, tạo việc làm và
nâng cấp công nghệ.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân
lực cho khu vực công nghiệp chế tạo. Cần tạo hệ thống giáo dục và đào tạo
nghiệp vụ tạo ra được một lực lượng lao động với những mức độ kỹ năng cần thiết
để doanh nghiệp không phải đào tạo lại nhân viên. Đồng thời, thực hiện hệ thống
Kiểm định Kỹ năng nghề thường xuyên.
Thứ tư, phát triển công nghệ.
Cần hạn chế nhập siêu các sản phẩm công nghệ, xuất khẩu các sản phẩm đặc trưng,
chế tạo bằng công nghệ cao. Do đó, cả Chính phủ và tư nhân phải thiết kế và
thực hiện một nghị trình cụ thể nhằm thúc đẩy năng lực đổi mới công nghệ của
quốc gia.
Thứ năm, thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài (FDI) có chất lượng cho hoạt động sản xuất. Cơ cấu FDI cần
chú ý đến cán cân thương mại, giảm sự phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu cho việc
sản xuất của họ.
Ngoài ra, việc thay đổi cơ cấu theo
hướng phát triển các lĩnh vực thâm dụng công nghệ mang tính chiến lược có thể
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và cung cấp nền tảng cần thiết cho tăng
trưởng bền vững
ĐỘNG LỰC THÚC
ĐẨY HOẠT ĐỘNG KDQT?
- Tại các nước mới nổi và đang phát triển, tăng trưởng kinh
tế bị ảnh hưởng từ sự suy yếu tại các nước phát triển và tình trạng mất cân đối
tài chính. Tuy nhiên, chính sách kinh tế vĩ mô nới lỏng sẽ góp phần thúc đẩy
đầu tư và tăng trưởng ổn định trong khi tăng trưởng việc làm cao và mức tiêu
thụ ổn định sẽ tiếp tục hỗ trợ cầu nội địa
Về chính sách tiền tệ, trong
năm 2012, Chính phủ các nước tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để
hỗ trợ tăng trưởng trong bối cảnh các điều kiện kinh tế trong và ngoài nước đều
yếu đi và lạm phát thấp. Trong khi một số ngân hàng trung ương (NHTW) lớn ở Mỹ,
Nhật, Anh, Canada tiếp tục giữ nguyên mức lãi suất chính sách thấp nhằm hỗ trợ
tăng trưởng, thì một số NHTW khác tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ bằng
cách giảm lãi suất hoặc
hạ dự trữ bắt buộc (tiêu biểu
là Khu vực đồng Euro, Thụy Điển, Na Uy, Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil,
Philipines, Indonesia, Nam Phi, Hungary, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Lan)
Một số gói kích thích kinh tế
cũng đã được nền kinh tế lớn công bố trong tháng 9/2012 nhằm hỗ trợ tăng trưởng
như: (i) Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) (ngày 13/9/2012) công bố gói nới lỏng
định lượng QE3 với việc mua vào chứng khoán thế chấp với quy mô 40 tỷ USD/tháng
cho đến khi thị trường việc làm được cải thiện; (ii) ECB (ngày 11/9/2012) công
bố chương trình mua trái phiếu chính phủ trong khu vực đồng Euro với thời gian
đáo hạn còn lại khoảng 1-3 năm; và (iii) NHTW Nhật mở rộng chương trình thu mua
tài sản thêm 10.000 tỷ yên (khoảng 126 tỷ USD) lên 80.000 tỷ yên.
Ưu
tiên đầu tư phát triển KH & CN có tác động mạnh mẽ tới quá trình toàn cầu
hóa Những tiến bộ của khoa học – kỹ
thuật và công nghệ bao gồm những phát minh, sáng chế, các biện pháp kỹ thuật
tiên tiến, các giống mới, các phương pháp công nghệ hiện đại, các lý thuyết và
phương thức quản lý mới trong mọi lĩnh vực được áp dụng vào thực tiễn sản xuất,
kinh doanh làm tăng năng suất lao động, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng
dư cho xã hội với chi phí thấp hơn, giá rẻ hơn, tạo ra tiền đề thúc đẩy sự hình
thành và phát triển sự phân công, chuyên môn hóa lao động, sản xuất và kinh
doanh theo ngành nghề, vùng lãnh thổ và giữa các quốc gia. Nhờ đó, thương mại
và trao đổi quốc tế về hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động và tri thức ngày một
tăng.
Việc
dở bỏ các rào cản trong các hoạt động
thương mại, đầu tư, dịch vụ, công nghệ, sở hữu trí tuệ giữa các nước và lãnh thổ
trên phạm vi khu vực và toàn cầu cùng với sự hình thành và tăng cường các quy định,
nguyên tắc, luật lệ chung với cơ chế tổ chức để điều chỉnh và quản lý các hoạt
động, giao dịch kinh tế quốc tế theo hướng tự do hoá là động lực quan trọng
thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. Đối với lĩnh vực hàng hóa, trong khuôn khổ của
Hiệp định GATT, thương mại hàng hóa là lĩnh vực thể hiện rõ nét nhất việc dỡ bỏ
các rào cản theo hướng tự do hóa